Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ LÝ THUYẾT VÀ VẬT LÝ TOÁN

I. MỞ ĐẦU:

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mô phỏng vi mô hay còn gọi các mô hình nguyên tử đang được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là đối với vật liệu vô định hình, vật liệu nano và công nghệ nano. Các mô hình nguyên tử này được thiết kế và sử dụng như những mẫu thí nghiệm ảo với kích thước nguyên tử nhằm dự báo các tính chất mới của vật liệu cũng như các mẫu vật liệu mới trước khi nó được tổng hợp. Thêm vào đó công nghệ nano thường phải làm việc với các quá trình vật lý xẩy ra trong khoảng thời gian cỡ picosecond với các đối tượng kích thước nanometer. Do vậy các mô hình nguyên tử đã trở thành một công cụ rất hữu hiệu để khảo sát các vấn đề kể trên.

Từ những thập niên 50 của thế kỉ XX các mô hình nguyên tử thường được sử dụng với các thế tương tác thực nghiệm và bán thực nghiệm như thế Lennard Jones, thế More,... Từ đó đến nay phương pháp mô phỏng không ngừng phát triển. Cùng với nó là sự phát triển và sử dụng các thế tương tác thực tế hơn, điều này có nghĩa là mô hình vật liệu tin cậy hay không sẽ phụ thuộc vào thế tương tác được lựa chọn. Thế tương tác giữa các nguyên tử, phân tử trong mô hình càng chính xác thì khối lượng tính toán càng tăng dẫn đến kích thước mô hình thường rất nhỏ so với mẫu thực và vì thế độ tin cậy của mô hình còn thấp. Thời gian gần đây với sự phát triển của công nghệ thông tin, tốc độ tính toán của máy tính tăng lên rất nhiều, đặc biệt là sự xuất hiện của các siêu máy tính và kỹ thuật tính toán song song làm cho phương pháp mô phỏng càng phát huy được sức mạnh của nó.

Đối tượng khảo sát của mô phỏng vi mô trải rộng trên toàn bộ các lĩnh vực của công nghệ vật liệu mới và công nghệ nano. Tất nhiên, các mô hình nguyên tử cung cấp nhiều thông tin quý giá chẳng hạn các nghiên cứu mới đây cho thấy những sai hỏng trong cấu trúc cũng như các tính chất dị thường của các màng mỏng oxit. Ở trạng thái vô định hình SiO2 xuất hiện sự chuyển pha bậc một khi tiến hành nén áp suất rồi giảm dần quá trình nén theo chiều ngược lại. Các dị thường trong cấu trúc như mật độ, hệ số khuếch tán, trật tự cấu trúc cũng được phát hiện. Khi tiến hành nghiên cứu phân bố lỗ hổng trong vật liệu Al2O3 và SiO2 xuất hiện các lỗ hổng có bán kính lớn hơn bán kính nguyên tử. Mật độ các lỗ trống chứng minh độ xốp của vật liệu đồng thời cho thấy các đám cavity kích thước lớn trong nó.

Vấn đề đặt ra là kiểm tra lại sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình và sử dụng các lỗ trống này để hòa tan các chất khác vào vật liệu? Đây là vấn đề chưa được đề cập trong những công trình nghiên cứu trước đây. Đó chính là lý do chọn đề tài:

Mô phỏng vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Ø Mục đích: Nghiên cứu cấu trúc vi mô của vật liệu VĐH nhằm xác định sự xuất hiện của các lỗ trống trong vật liệu vô định hình và sự hòa tan của các chất khí vào vật liệu này

Ø Đối tượng nghiên cứu là vật liệu VĐH hợp kim Fe1-x Bx, Al2O3

Luận án tập trung vào nghiên cứu

1) Cấu trúc vi mô của các hệ VĐH hai nguyên Fe-B và oxit Al2O3

2) Sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên và ứng dụng khí hòa tan

3. Phương pháp nghiên cứu:

Luận án sử dụng phương pháp mô phỏng thống kê hồi phục (TKHP)

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Các kết quả thu được của luận án cho phép dự báo và giải thích được một số hiện tượng vật lý xảy ra trong vật liệu VĐH, góp phần tìm hiểu về mô hình cấu trúc VĐH.

Các kết quả này có ý nghĩa dự báo, tham khảo, định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo về vật liệu VĐH cũng cho các ứng dụng về sản xuất vật liệu mới trong tương lai.

II. CẤU TRÚC:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu gồm 3 chương

Chương I: Tổng quan

Trình bày tổng quan về các phương pháp mô phỏng. Các kết quả nghiên cứu về về vật liệu VĐH FeB, Al2O3 ở trong và ngoài nước, những vấn đề còn tồn tại…

Chương II: Phương pháp nghiên cứu

Trình bày nội dung phương pháp thống kê hồi phục, thuật toán mô phỏng, cấu trúc chương trình …

Chương III: Vi cấu trúc hệ FeB, Al2O3

Các kết quả nghiên cứu về vi cấu trúc của hệ FeB

III. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN

- Từ 20/9/2009 đến 20/10/2009: Đặt ý tưởng, liên hệ với giáo viên hướng dẫn để được thống nhất tên đề tài và nội dung nghiên cứu, xin từ GVHD các công việc chuẩn bị.

- Từ 20/10/2009/ đến 20/11/2009:

+ Tìm hiểu về đề tài: các hợp chất vô định hình trên cơ sở FeB, Al2O3

+ Các phương pháp nghiên cứu vật liệu, phương pháp mô phỏng

+ Tìm hiểu chương trình, tạo mẫu nghiên cứu để chạy mô phỏng trên máy tính

+ Chạy chương trình, liên hệ với Trung tâm Tính toán hiệu năng cao - ĐHSP Hà Nội nhờ hỗ trợ để có thể chạy chương trình hiệu quả nhất.

+ Viết đề cương, trình đề cương với GVHD

- Từ 15/12/2009 đến 21/12/2009: Liên hệ xin làm việc tại bộ môn Vật lý Tin học thuộc Viện Vật lý Kỹ thuật, ĐHBK Hà Nội.

- Từ 25/12/2009 đến 27/12/2009: Bảo vệ đề cương tại ĐHSP Hà Nội

- Từ 01/01/2010 đến 01/08/2010: Hoàn thành luận án trình GVHD

- Từ 20/09/2010: Bảo vệ luận án.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. “Nghiên cứu thể tích tự do và lỗ trống trong kim loại vô định hình Coban”, Báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ IV, Núi Cốc, 5-7/11/2003, tr. 797-801.
  2. “Lỗ trống và đám lỗ trống trong hợp kim vô định hình hệ kim loại-á kim”, Tuyển tập các báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ VI, tr.1143-1146.
  3. “Mô phỏng số trong nghiên cứu vật liệu mới”, Hiendaihoa.com, 10-11-2006.
  4. Hoàng Văn Huệ(2006), “Mô phỏng cấu trúc vi mô và tính chẩt khuếch tán trong một số vật liệu vô định hình”, Luận án tiến sĩ vật lý, ĐHBK – Hà Nội.
  5. P.N.Nguyên (1996), ‘‘Nghiên cứu cấu trúc và một số tính chất vật lý của kim loại và hợp kim vô định hình trên cơ sở sắt và coban bằng phương pháp mô hình hoá’’, Luận án tiến sĩ toán lí, ĐHBK - Hà nội.
  6. Arsenault R.J., Beeler J.R., Esterling D.M. (1988), “Computer simulation in materials science”, p.322.
  7. Belashchenko D.K., V.V.Hoang., P.K.Hung (2000), “Computer simulation of local structure and magnetic properties of amorphours Co-B alloys”, J.Non-Crystalline Solid, 169, p.276.
  8. P.N.Nguyen, N.V.Hong, et. al.(2002), “Investigation of local structure of the amorphous alloys FexB1-x”, Proc. of the fifth Vietnamese German seminar on physics and engineering, 25-Feb. – 02-March
  9. P.K.Hung, P.N.nguyen. V.V.Hoang, H.V.Hue. N.V.Hong, L.T.Vinh (2002), “Computer simulation of diffusion in amorphour solid”, Adv. in Natural Scien., Vol.3, No.4 (315-321).
  10. P.K.Hung, V.V.Hoang, H.V.Hue, L.V.Vinh, N.V.Hong (2003), “The study of pores and free volume in amorphous models”, Modelling, simulation and Optimization of complex processes, March 10-14, 215-225.

11 P.K.Hung, H.V.Hue, L.T.Vinh (2006), “Simulation study of pores and pore clusters in amorphous alloys Co100-xBx and Fe100-yPy”, J. Non-Cryst. Solids, 352, 30-31, p 3332-3338.

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ LÝ THUYẾT VÀ VẬT LÝ TOÁN

  1. MỞ ĐẦU:

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mô phỏng vi mô hay còn gọi các mô hình nguyên tử đang được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là đối với vật liệu vô định hình, vật liệu nano và công nghệ nano. Các mô hình nguyên tử này được thiết kế và sử dụng như những mẫu thí nghiệm ảo với kích thước nguyên tử nhằm dự báo các tính chất mới của vật liệu cũng như các mẫu vật liệu mới trước khi nó được tổng hợp. Thêm vào đó công nghệ nano thường phải làm việc với các quá trình vật lý xẩy ra trong khoảng thời gian cỡ picosecond với các đối tượng kích thước nanometer. Do vậy các mô hình nguyên tử đã trở thành một công cụ rất hữu hiệu để khảo sát các vấn đề kể trên.

Từ những thập niên 50 của thế kỉ XX các mô hình nguyên tử thường được sử dụng với các thế tương tác thực nghiệm và bán thực nghiệm như thế Lennard Jones, thế More,... Từ đó đến nay phương pháp mô phỏng không ngừng phát triển. Cùng với nó là sự phát triển và sử dụng các thế tương tác thực tế hơn, điều này có nghĩa là mô hình vật liệu tin cậy hay không sẽ phụ thuộc vào thế tương tác được lựa chọn. Thế tương tác giữa các nguyên tử, phân tử trong mô hình càng chính xác thì khối lượng tính toán càng tăng dẫn đến kích thước mô hình thường rất nhỏ so với mẫu thực và vì thế độ tin cậy của mô hình còn thấp. Thời gian gần đây với sự phát triển của công nghệ thông tin, tốc độ tính toán của máy tính tăng lên rất nhiều, đặc biệt là sự xuất hiện của các siêu máy tính và kỹ thuật tính toán song song làm cho phương pháp mô phỏng càng phát huy được sức mạnh của nó.

Đối tượng khảo sát của mô phỏng vi mô trải rộng trên toàn bộ các lĩnh vực của công nghệ vật liệu mới và công nghệ nano. Tất nhiên, các mô hình nguyên tử cung cấp nhiều thông tin quý giá chẳng hạn các nghiên cứu mới đây cho thấy những sai hỏng trong cấu trúc cũng như các tính chất dị thường của các màng mỏng oxit. Ở trạng thái vô định hình SiO2 xuất hiện sự chuyển pha bậc một khi tiến hành nén áp suất rồi giảm dần quá trình nén theo chiều ngược lại. Các dị thường trong cấu trúc như mật độ, hệ số khuếch tán, trật tự cấu trúc cũng được phát hiện. Khi tiến hành nghiên cứu phân bố lỗ hổng trong vật liệu Al2O3 và SiO2 xuất hiện các lỗ hổng có bán kính lớn hơn bán kính nguyên tử. Mật độ các lỗ trống chứng minh độ xốp của vật liệu đồng thời cho thấy các đám cavity kích thước lớn trong nó.

Vấn đề đặt ra là kiểm tra lại sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình và sử dụng các lỗ trống này để hòa tan các chất khác vào vật liệu? Đây là vấn đề chưa được đề cập trong những công trình nghiên cứu trước đây. Đó chính là lý do chọn đề tài:

" Mô phỏng vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình"

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Mục đích: Nghiên cứu cấu trúc vi mô của vật liệu VĐH nhằm xác định sự xuất hiện của các lỗ trống trong vật liệu vô định hình và sự hòa tan của các chất khí vào vật liệu này
  • Đối tượng nghiên cứu là vật liệu VĐH hợp kim Fe1-x Bx, Al2O3

Luận án tập trung vào nghiên cứu

1) Cấu trúc vi mô của các hệ VĐH hai nguyên Fe-B và oxit Al2O3

2) Sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên và ứng dụng khí hòa tan

3. Phương pháp nghiên cứu:

    Luận án sử dụng phương pháp mô phỏng thống kê hồi phục (TKHP)

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

    Các kết quả thu được của luận án cho phép dự báo và giải thích được một số hiện tượng vật lý xảy ra trong vật liệu VĐH, góp phần tìm hiểu về mô hình cấu trúc VĐH.

    Các kết quả này có ý nghĩa dự báo, tham khảo, định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo về vật liệu VĐH cũng cho các ứng dụng về sản xuất vật liệu mới trong tương lai.


 


 


 


 


 


 

  1. CẤU TRÚC:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu gồm 3 chương

    Chương I: Tổng quan

Trình bày tổng quan về các phương pháp mô phỏng. Các kết quả nghiên cứu về về vật liệu VĐH FeB, Al2O3 ở trong và ngoài nước, những vấn đề còn tồn tại…

    Chương II: Phương pháp nghiên cứu

Trình bày nội dung phương pháp thống kê hồi phục, thuật toán mô phỏng, cấu trúc chương trình …

    Chương III: Vi cấu trúc hệ FeB, Al2O3

Các kết quả nghiên cứu về vi cấu trúc của hệ FeB

  1. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN

- Từ 20/9/2009 đến 20/10/2009: Đặt ý tưởng, liên hệ với giáo viên hướng dẫn để được thống nhất tên đề tài và nội dung nghiên cứu, xin từ GVHD các công việc chuẩn bị.

- Từ 20/10/2009/ đến 20/11/2009:

+ Tìm hiểu về đề tài: các hợp chất vô định hình trên cơ sở FeB, Al2O3

+ Các phương pháp nghiên cứu vật liệu, phương pháp mô phỏng

+ Tìm hiểu chương trình, tạo mẫu nghiên cứu để chạy mô phỏng trên máy tính

+ Chạy chương trình, liên hệ với Trung tâm Tính toán hiệu năng cao - ĐHSP Hà Nội nhờ hỗ trợ để có thể chạy chương trình hiệu quả nhất.

+ Viết đề cương, trình đề cương với GVHD

- Từ 15/12/2009 đến 21/12/2009: Liên hệ xin làm việc tại bộ môn Vật lý Tin học thuộc Viện Vật lý Kỹ thuật, ĐHBK Hà Nội.

- Từ 25/12/2009 đến 27/12/2009: Bảo vệ đề cương tại ĐHSP Hà Nội

- Từ 01/01/2010 đến 01/08/2010: Hoàn thành luận án trình GVHD

- Từ 20/09/2010: Bảo vệ luận án.


 


 


 


 

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. "Nghiên cứu thể tích tự do và lỗ trống trong kim loại vô định hình Coban", Báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ IV, Núi Cốc, 5-7/11/2003, tr. 797-801.
  2. "Lỗ trống và đám lỗ trống trong hợp kim vô định hình hệ kim loại-á kim", Tuyển tập các báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ VI, tr.1143-1146.
  3. "Mô phỏng số trong nghiên cứu vật liệu mới", Hiendaihoa.com, 10-11-2006.
  4. Hoàng Văn Huệ(2006), "Mô phỏng cấu trúc vi mô và tính chẩt khuếch  tán trong một số vật liệu vô định hình", Luận án tiến sĩ vật lý, ĐHBK – Hà Nội.
  5. P.N.Nguyên (1996), ''Nghiên cứu cấu trúc và một số tính chất vật lý của kim loại và hợp kim vô định hình trên cơ sở sắt và coban bằng phương pháp mô hình hoá'', Luận án tiến sĩ toán lí, ĐHBK - Hà nội.    
  6. Arsenault R.J., Beeler J.R., Esterling D.M. (1988), "Computer simulation in materials science", p.322.
  7. Belashchenko D.K., V.V.Hoang., P.K.Hung (2000), "Computer simulation of local structure and magnetic properties of amorphours Co-B alloys", J.Non-Crystalline Solid,  169, p.276.
  8. P.N.Nguyen, N.V.Hong, et. al.(2002), "Investigation of local structure of the amorphous alloys FexB1-x",  Proc. of the fifth Vietnamese German seminar on physics and engineering, 25-Feb. – 02-March
  9. P.K.Hung, P.N.nguyen. V.V.Hoang, H.V.Hue. N.V.Hong, L.T.Vinh (2002), "Computer simulation of diffusion in amorphour solid", Adv. in Natural Scien., Vol.3, No.4 (315-321).
  10. P.K.Hung, V.V.Hoang, H.V.Hue, L.V.Vinh, N.V.Hong (2003), "The study of pores and free volume in amorphous models", Modelling, simulation and Optimization of complex processes, March 10-14, 215-225.
    1. P.K.Hung, H.V.Hue, L.T.Vinh (2006), "Simulation study of pores and pore clusters in amorphous alloys Co100-xBx and Fe100-yPy", J. Non-Cryst. Solids, 352, 30-31, p 3332-3338. 


       

  1. MỞ ĐẦU:

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mô phỏng vi mô hay còn gọi các mô hình nguyên tử đang được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là đối với vật liệu vô định hình, vật liệu nano và công nghệ nano. Các mô hình nguyên tử này được thiết kế và sử dụng như những mẫu thí nghiệm ảo với kích thước nguyên tử nhằm dự báo các tính chất mới của vật liệu cũng như các mẫu vật liệu mới trước khi nó được tổng hợp. Thêm vào đó công nghệ nano thường phải làm việc với các quá trình vật lý xẩy ra trong khoảng thời gian cỡ picosecond với các đối tượng kích thước nanometer. Do vậy các mô hình nguyên tử đã trở thành một công cụ rất hữu hiệu để khảo sát các vấn đề kể trên.

Từ những thập niên 50 của thế kỉ XX các mô hình nguyên tử thường được sử dụng với các thế tương tác thực nghiệm và bán thực nghiệm như thế Lennard Jones, thế More,... Từ đó đến nay phương pháp mô phỏng không ngừng phát triển. Cùng với nó là sự phát triển và sử dụng các thế tương tác thực tế hơn, điều này có nghĩa là mô hình vật liệu tin cậy hay không sẽ phụ thuộc vào thế tương tác được lựa chọn. Thế tương tác giữa các nguyên tử, phân tử trong mô hình càng chính xác thì khối lượng tính toán càng tăng dẫn đến kích thước mô hình thường rất nhỏ so với mẫu thực và vì thế độ tin cậy của mô hình còn thấp. Thời gian gần đây với sự phát triển của công nghệ thông tin, tốc độ tính toán của máy tính tăng lên rất nhiều, đặc biệt là sự xuất hiện của các siêu máy tính và kỹ thuật tính toán song song làm cho phương pháp mô phỏng càng phát huy được sức mạnh của nó.

Đối tượng khảo sát của mô phỏng vi mô trải rộng trên toàn bộ các lĩnh vực của công nghệ vật liệu mới và công nghệ nano. Tất nhiên, các mô hình nguyên tử cung cấp nhiều thông tin quý giá chẳng hạn các nghiên cứu mới đây cho thấy những sai hỏng trong cấu trúc cũng như các tính chất dị thường của các màng mỏng oxit. Ở trạng thái vô định hình SiO2 xuất hiện sự chuyển pha bậc một khi tiến hành nén áp suất rồi giảm dần quá trình nén theo chiều ngược lại. Các dị thường trong cấu trúc như mật độ, hệ số khuếch tán, trật tự cấu trúc cũng được phát hiện. Khi tiến hành nghiên cứu phân bố lỗ hổng trong vật liệu Al2O3 và SiO2 xuất hiện các lỗ hổng có bán kính lớn hơn bán kính nguyên tử. Mật độ các lỗ trống chứng minh độ xốp của vật liệu đồng thời cho thấy các đám cavity kích thước lớn trong nó.

Vấn đề đặt ra là kiểm tra lại sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình và sử dụng các lỗ trống này để hòa tan các chất khác vào vật liệu? Đây là vấn đề chưa được đề cập trong những công trình nghiên cứu trước đây. Đó chính là lý do chọn đề tài:

" Mô phỏng vacancy tự nhiên trong vật liệu vô định hình"

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Mục đích: Nghiên cứu cấu trúc vi mô của vật liệu VĐH nhằm xác định sự xuất hiện của các lỗ trống trong vật liệu vô định hình và sự hòa tan của các chất khí vào vật liệu này
  • Đối tượng nghiên cứu là vật liệu VĐH hợp kim Fe1-x Bx, Al2O3

Luận án tập trung vào nghiên cứu

1) Cấu trúc vi mô của các hệ VĐH hai nguyên Fe-B và oxit Al2O3

2) Sự xuất hiện của các vacancy tự nhiên và ứng dụng khí hòa tan

3. Phương pháp nghiên cứu:

    Luận án sử dụng phương pháp mô phỏng thống kê hồi phục (TKHP)

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

    Các kết quả thu được của luận án cho phép dự báo và giải thích được một số hiện tượng vật lý xảy ra trong vật liệu VĐH, góp phần tìm hiểu về mô hình cấu trúc VĐH.

    Các kết quả này có ý nghĩa dự báo, tham khảo, định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo về vật liệu VĐH cũng cho các ứng dụng về sản xuất vật liệu mới trong tương lai.


 


 


 


 


 


 

  1. CẤU TRÚC:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu gồm 3 chương

    Chương I: Tổng quan

Trình bày tổng quan về các phương pháp mô phỏng. Các kết quả nghiên cứu về về vật liệu VĐH FeB, Al2O3 ở trong và ngoài nước, những vấn đề còn tồn tại…

    Chương II: Phương pháp nghiên cứu

Trình bày nội dung phương pháp thống kê hồi phục, thuật toán mô phỏng, cấu trúc chương trình …

    Chương III: Vi cấu trúc hệ FeB, Al2O3

Các kết quả nghiên cứu về vi cấu trúc của hệ FeB

  1. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN

- Từ 20/9/2009 đến 20/10/2009: Đặt ý tưởng, liên hệ với giáo viên hướng dẫn để được thống nhất tên đề tài và nội dung nghiên cứu, xin từ GVHD các công việc chuẩn bị.

- Từ 20/10/2009/ đến 20/11/2009:

+ Tìm hiểu về đề tài: các hợp chất vô định hình trên cơ sở FeB, Al2O3

+ Các phương pháp nghiên cứu vật liệu, phương pháp mô phỏng

+ Tìm hiểu chương trình, tạo mẫu nghiên cứu để chạy mô phỏng trên máy tính

+ Chạy chương trình, liên hệ với Trung tâm Tính toán hiệu năng cao - ĐHSP Hà Nội nhờ hỗ trợ để có thể chạy chương trình hiệu quả nhất.

+ Viết đề cương, trình đề cương với GVHD

- Từ 15/12/2009 đến 21/12/2009: Liên hệ xin làm việc tại bộ môn Vật lý Tin học thuộc Viện Vật lý Kỹ thuật, ĐHBK Hà Nội.

- Từ 25/12/2009 đến 27/12/2009: Bảo vệ đề cương tại ĐHSP Hà Nội

- Từ 01/01/2010 đến 01/08/2010: Hoàn thành luận án trình GVHD

- Từ 20/09/2010: Bảo vệ luận án.


 


 


 


 

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. "Nghiên cứu thể tích tự do và lỗ trống trong kim loại vô định hình Coban", Báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ IV, Núi Cốc, 5-7/11/2003, tr. 797-801.
  2. "Lỗ trống và đám lỗ trống trong hợp kim vô định hình hệ kim loại-á kim", Tuyển tập các báo cáo tại HNVL toàn quốc lần thứ VI, tr.1143-1146.
  3. "Mô phỏng số trong nghiên cứu vật liệu mới", Hiendaihoa.com, 10-11-2006.
  4. Hoàng Văn Huệ(2006), "Mô phỏng cấu trúc vi mô và tính chẩt khuếch  tán trong một số vật liệu vô định hình", Luận án tiến sĩ vật lý, ĐHBK – Hà Nội.
  5. P.N.Nguyên (1996), ''Nghiên cứu cấu trúc và một số tính chất vật lý của kim loại và hợp kim vô định hình trên cơ sở sắt và coban bằng phương pháp mô hình hoá'', Luận án tiến sĩ toán lí, ĐHBK - Hà nội.    
  6. Arsenault R.J., Beeler J.R., Esterling D.M. (1988), "Computer simulation in materials science", p.322.
  7. Belashchenko D.K., V.V.Hoang., P.K.Hung (2000), "Computer simulation of local structure and magnetic properties of amorphours Co-B alloys", J.Non-Crystalline Solid,  169, p.276.
  8. P.N.Nguyen, N.V.Hong, et. al.(2002), "Investigation of local structure of the amorphous alloys FexB1-x",  Proc. of the fifth Vietnamese German seminar on physics and engineering, 25-Feb. – 02-March
  9. P.K.Hung, P.N.nguyen. V.V.Hoang, H.V.Hue. N.V.Hong, L.T.Vinh (2002), "Computer simulation of diffusion in amorphour solid", Adv. in Natural Scien., Vol.3, No.4 (315-321).
  10. P.K.Hung, V.V.Hoang, H.V.Hue, L.V.Vinh, N.V.Hong (2003), "The study of pores and free volume in amorphous models", Modelling, simulation and Optimization of complex processes, March 10-14, 215-225.
    1. P.K.Hung, H.V.Hue, L.T.Vinh (2006), "Simulation study of pores and pore clusters in amorphous alloys Co100-xBx and Fe100-yPy", J. Non-Cryst. Solids, 352, 30-31, p 3332-3338. 


       

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2009

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2009

Thứ Ba, 2 tháng 6, 2009

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2009

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2009

Vài nhận xét của TS Phạm Quang Tuấn về dự án bôxít Tây Nguyên


Những cái này không phải là tu từ mà là sự thật:

1. Dự án bauxite dự tính đầu tư một số tiền lớn hơn tổng sản lượng quốc gia hiện thời. Tiền này là tiền của DÂN.

2. Dự án muốn bán tống bán tháo trong vòng 50 năm một tài nguyên lớn của đất nước. Tài nguyên này của DÂN, cả người dân hiện nay lẫn con cháu sau này.

3. Dự án có cơ nguy gây đảo lộn lớn về môi trường, xã hội, quốc phòng.

4. Khả năng đầu tư của VN có hạn, tiêu chỗ này thì phải bỏ chỗ khác, mà dự án thì kéo theo những chi tiêu khổng lồ: một đường tàu hỏa mới vượt Trường Sơn, một cảng mới, có thể một lò nguyên tử mới cho luyện nhôm – toàn là những ĐẠI DỰ ÁN vô cùng tốn kém về tiền bạc, nhân sự, hút khả năng phát triển của đất nước, mà hoàn toàn không được tính tới.

5. Dự án khởi sự kém minh bạch và thi hành hấp tấp, không tuân thủ luật pháp và những quy tắc thông thường về hạch toán kinh tế, bảo vệ môi trường.

6. Dự án xảy ra trong một toàn cảnh xã hội tham nhũng, thiếu minh bạch, thiếu hiểu biết quan tâm về môi trường, thiếu nhân sự chuyên môn, giáo dục đại học yếu kém.

Với nhiều risk factors (yếu tố rủi ro - THD) như vậy, người dân có đủ tin tưởng để cho chính phủ làm bây giờ hay không?

Có ai có thể giải thích cái time frame (khung thời gian - THD) đào bán hết bauxite trong 50 năm không? Time frame đó lợi cho ai, cho Trung Quốc hay cho Việt Nam?

Nếu dừng lại, tính toán kỹ, đợi 10, 20 năm nữa để làm tốt hơn thì CÓ HẠI GÌ CHO CON CHÁU CHÚNG TA KHÔNG? Hay chỉ bất lợi cho Trung Quốc và các vị quyền chức đang đợi chấm mút?

http://www.talawas.org/?p=5177&cpage=1#comment-2222

Nguyễn Tất Nhiên:Đời Thơ Còn Lại

Đời Thơ Còn Lại
Anh nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng, tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc phổ thơ của anh.
Hãy đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài hoa dị thường của anh:
Khúc Buồn Tình
1.
Người từ trăm năm
về ngang sông rộng
ta ngoắc mòn tay
... trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Trong tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có một không ai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị, ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ.
Ma Sœur
đưa em về dưới mưa
nói năng chi cũng thừa
phất phơ đời sương gió
hồn mình gần nhau chưa?
tay ta từng ngón tay
vuốt lưng em tóc dài
những trưa ngồi quán vắng
chia nhau tình-phôi-thai
xa nhau mà không hay
(hỡi em cười vô tội
đeo thánh giá huy hoàng
hỡi ta nhiều sám hối
tính nết vẫn hoang đàng!)
em hiền như "ma sœur"
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
"ma sœur" này "ma sœur"!
có dịu dàng ánh mắt?
có êm đềm cánh môi?
ru ta -- người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
(cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!)
đưa em về dưới mưa
xe lăn đều lên dốc
chở tình nhau mệt nhọc!
đưa em về dưới mưa
áo dài sầu hai vạt
khi chấm bùn lưa thưa...
đưa em về dưới mưa
hỡi em còn nít nhỏ
chuyện tình nào không xưa?
vai em tròn dưới mưa
ướt bao nhiêu cũng vừa
cũng chưa hơn tình rụng
thấm linh hồn "ma sœur"...
(1971)
Linh Mục
1.
dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi -- người yêu dĩ vãng
nên sống gần Sa-tăng
ngày kia nghe lời quỷ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng!
2.
vì tôi là linh mục
không mặc áo nhà giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang!
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!)
vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!
vì tôi là linh mục
không biết mặt thánh thần
nên tín đồ duy nhất
cũng là đấng quyền năng!
3.
tín đồ là người tình
người tình là ác quỷ
ác quỷ là quyền năng
quyền năng là tín đồ
tín đồ là người tình
thiêu hủy lầu chuông tôi
(vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian!)
4.
vì tôi là linh mục
không biết rửa tội người
nên âm thầm lúc chết
tội mình còn thâm vai...
(1970)
Ðụng chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời thơ của anh:
Hai năm tình lận đận
1.
hai năm tình lận đận
hai đứa cùng xanh xao
mùa đông, hai đứa lạnh
hơi thở dài như nhau (?)
hai năm tình lận đận
hai đứa cùng hư hao
(em không còn thắt bính
nuôi dưỡng thời ngây thơ
anh không còn luýnh quýnh
giữa sân trường trao thư!)
hai năm tình lận đận
hai đứa đành xa nhau
em vẫn còn mắt biếc
anh vẫn còn nôn nao
ngoài đường em bước chậm
trong quán chiều anh ngóng cổ cao...
2.
em bây giờ, có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ, có lẽ
xin làm người-tình-thua
chuông nhà thờ đổ mệt
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ, có lẽ
rơi xuống trần gian, mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
là đàn ông... dại khờ!)
anh bây giờ, có lẽ
thiết tha hơn tín đồ
nguyện làm cây thánh giá
trên chót đỉnh nhà thờ
cô đơn nhìn bụi bặm
làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh!)
3.
hai năm tình lận đận
em đã già hơn xưa!...
(1972)
Anh thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.
Thơ tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của tình yêu.
Nhưng đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối biểu đạt về tình yêu:
Thiên thu
sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu!
1970)
Trong thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Ðây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:
Nên thời gian ấy ngùi trông
giọt mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi nghe lá rụng như vàng áo xưa
hơi tàn tro ấm lần đưa
ba năm khơi lại cũng vừa đủ đau!
Nên thời gian ấy ngùi trông
mừng em sớm biết lọc lừa
biết ngây thơ giả -- biết đùa với đau!
biệt ly dù ở ga nào
cho tôi ngồi một toa tàu lãng quên...
Hôm nay (1974)
Ðó là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy:
"Dung, theo nghĩa dung chứa.
Năm lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy.
Lấy cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt, lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động chăng?
Chỉ mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng, còn hơn không."
Nguyễn Tất Nhiên
(Westminster, Ca. ngày 12/01/89)
Nhưng không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh.
Tâm nguyệt
từ gót sen hài em hút dấu
sầu tôi như lá thẫn thờ bay
ví dù lá ngập đường em bước
lá cũng xin đừng bận gót ai...
(06/01/1989)
Tâm Duyên
thấy sự sống nhịp nhàng
theo đỏ, vàng, xanh, đỏ...
thấy phố xá từ tâm
đèn cười hoa ba đóa...
(17/01/89)
Rõ ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng:
Tịnh khúc
buồn ơi...
tôi bỏ tôi chìm đắm
trong tiếng làm thinh của ghế bàn
ghế bàn không sẻ chia sầu thảm
nhưng biết làm thinh lặng cảm thông
bàn ghế đâu như người vui nhảm
tọc mạch đời nhau để miệng mồm
...
buồn ơi, tôi muốn như bàn ghế
chịu đựng đời không biết thở than!
(13/01/89)
Ðiều anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung, khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu thương con người, yêu thương cuộc đời.
Sau đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài khác chăng. Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây cũng quá đủ rồi. Không cần phải thêm một bài nào nữa. Ðây không phải là một bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn:
Tâm dung
1.
có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm mắt em?
...
4.
vì người yêu thương trời đất cũng yêu thương, vì em đang ban phát yêu thương, vì anh cũng là thành phần muôn một của đất trời, nên cho dù em không hay không biết yêu thương vẫn thấm nhuần đều trên cuống đọt ngàn xanh dù em không biết không hay anh vẫn lan âm thầm khắp mặt địa cầu bất đồng khí hậu nhưng phải chăng em, nơi đá khô đất khó nào mà không diệp lục phải chăng em, đồng hoang man dã nào mà không có hoa chỉ tay em? vì em đang ban phát yêu thương nên anh khẩn xin là cọng cỏ được lần nào của chân em, tội nghiệp cho anh lòng còn ham muốn, tội nghiệp cho anh một đơn thân cỏ dại đòi chỉ riêng dành cho ngón ngón nhịp nhàng nhịp từng mỗi nhịp tim...
5.
tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc? em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi?
6.
anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù.
.......
10.
anh muốn dụi tóc vào những ngón tay em cho hiện ra vài điểm bạc, cho thời gian đẹp phôi phai, cho sen lòng anh ngày mỗi thêm một đóa, cho hoa huệ hoa trang em đong đưa ngần ấy búp nhỏ đơm hương cho gió tình thơm tho không phân biệt chiếm hữu, tự do.
11.
mặt đất kia phù sa đắp bồi cho lúa no hạt mởn mơ bông, ruộng lòng anh đòng đòng tươm mắn sữa vì em là mưa hạ nắng đông là suối sông nguồn lượng cho rễ ngon khoáng chất trẩy hoa cành, vườn lòng anh xanh ngát tận chân trời vì em là yêu thương không phân biệt hoa nào là hoa hạnh phúc quả nào là quả đau thương.
12.
buổi sáng tinh khôi bừng mắt dậy thấy hoa lá không tên bóng động hình bên cửa sổ đùa gió vui sương, môi cười theo hồn nhiên nụ, hoa cười hay anh cười? trưa trưa rực nắng chan vàng đồng hướng dương hực vàng một cánh ngút ngàn chân mây, những nụ cười hàm tiếu tròn đầy, anh cười hay hoa cười? chiều chiều nghiêng nghiêng nắng dịu nghiêng nghiêng mình chào người và người chào đáp lại, người cười hay tim cười? buổi tối anh ngon lành êm ả ngủ, thở đều hòa nơi một kẽ ngón chân em, em thở hay anh thở...
(19/01/89)
Sau đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Ðời anh, lúc nào cũng đi sớm hơn kẻ khác. Ðời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy chung suốt đời như thế!). Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn: là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật rộng.
Có thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Tất Nhiên
Đời thơ còn lại:
NTN wikipedia
----------------------------------



Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa. Sau 5-1975 sống tại Hoa Kỳ. Mất ngày 3-8-1992 tại California. Lúc còn trẻ ông còn có biệt danh là Hải Khùng.

Theo lời nhà thơ Thái Thụy Vy (người cùng quê với ông) "Hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá, Trúc đào, Vì tôi là linh mục, Em hiền như ma soeur, Kìa cô em Bắc kỳ nho nhỏ, Hai năm tình lận đận thì nữ sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm Cây Me, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy chị thứ ba là Minh Vân...

Lúc Nguyễn Tất Nhiên quyên sinh trước cửa chùa Việt Nam, California, anh chưa được trông thấy tác phẩm Minh khúc của anh ra đời. Quyển thơ này đang bị tranh chấp giữa Minh Thủy và gia đình Nguyễn Ngọc (cha của Nguyễn Tất Nhiên) chưa ngã ngũ".

Tác phẩm đã in:
- Nàng thơ trong mắt (1966, cùng với Đinh Thiên Phương)
- Dấu mưa qua đất (1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)
- Thiên tai (thơ, 1970)
- Thơ Nguyễn Tất Nhiên (thơ góp nhặt từ 1969-1980, nhà xuất bản Nam Á - Paris in lần đầu tiên)
- Những năm tình lận đận (tập nhạc 1977-1984, nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam)
- Chuông mơ (thơ từ năm 1972-1987, nhà xuất bản Văn Nghệ - California)

Sẽ in:
- Thiên tai (thơ, tái bản)
- Cũng cần cho hạnh phúc
- Tâm dung (thơ)
- Truyện ngắn Nguyễn Tất Nhiên
Khúc tình buồn


(1)
Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ

(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)

(2)

Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng

(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)

(1970)
Linh mục




1.
dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi - người yêu dĩ vãng
nên sống gần Satan
ngày kia nghe lời quỉ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng !

2.
vì tôi là linh mục
không mặc áo nhà giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang !

vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông!)

vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu chuông

vì tôi là linh mục
không biết mặt thánh thần
nên tín đồ duy nhất
cũng là đấng quyền năng !

3.
tín đồ là người tình
người tình là ác quỉ
ác quỉ là quyền năng
quyền năng là tín đồ
tín đồ là người tình
(vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian!)

4.
vì tôi là linh mục
không biết rửa tội người
nên âm thầm lúc chết
tội mình còn thâm vai ...

1970
Duyên tình con gái Bắc


Ta sẽ về thương lại nhánh sông xưa
Thương lại bóng hình người năm năm trước...

Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc
Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền
Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang
Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt!

Ta sẽ nhớ dặn dò lòng nên tha thiết
Nên vội vàng tin tưởng chuyện vu vơ
Nên yêu đương bằng khuôn mặt khờ khờ
Nên hùng hộ để đợi giờ thua thiệt!

Nghe nói em vừa thi rớt Luật
Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời
Mắt công nương thầm khép mộng chân trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!

(Dù thật sự cũng đáng đời em lắm
Rớt đi Duyên, rớt để thương người!)
Ta - thằng ôm hận tú tài đôi
Không biết tìm ai mà kể lể

Chim lớn thôi đành cam rớt lê.
Ngày ta buồn thần thánh cũng thôi linh!
Nếu vì em mà ta phải điên tình
Cơn giận dữ đã tận cùng mê muội

Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
Tay tre khô mối mọt ăn luồn
Dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
Khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!

Em chẳng bao giờ rung động cũ
Ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu
Nên trở về như một con sâu
Lê chân mỏng qua những tàn cây rậm

Nuôi hy vọng sau ngàn mưa nắng lậm
Lá xanh em chưa dấu lở loang nào
Ðể ta còn thi sĩ nhất loài sâu
Nhìn lá nõn, tiếc, thèm ...đâu dám cắn!

Nếu vì em mà thiên tài chán sống
Thì cũng vì em ta ngại bước xa đời!
Ma Soeur


Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa ?

Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi thai
Xa nhau mà không hay

Hỡi em cười vô tội
Đeo thánh giá huy hoàng
Nghĩ ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng!

Em hiền như ma-sơ
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mù
Ma-sơ này ma-sơ
Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời.

Cuộc đời tên vô đạo
Vết thương hành liệt tim !

Đưa em về dưới mưa
Xe lăn đều lên dốc
Chở tình nhau mệt nhọc!

Đưa em về dưới mưa
Áo dài sầu hai vạt
Khi chấm bùn lưa thưa

Đưa em về dưới mưa
Hỡi em còn nít nhỏ
Chuyện tình nào không xưa ?

Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa
Cũng chưa hơn tình rụng
Thấm linh hồn ma-sơ.

(1971)
Đám Đông


1.
cô Bắc Kỳ nho nhỏ
tóc "demi-garcon"
chiều vui thương đón gió
có thương thầm anh không ?
cô Bắc Kỳ nho nhỏ
tóc "demi-garc,on"
cười ngày thơ hết nụ
tình cờ thấy anh trông
khi không đường nín gió
bụi hết thời bay rong
khi không đường nín gió
anh lấy gì lang thang ?
cô Bắc Kỳ nho nhỏ
tóc "demi-garcon"
chiều đạp xe vô chợ
mắt như trời bao dung
anh vì mê mãi ngó
nên quên thù đám đông!

2.
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan
cửa chùa tuy rộng mở
tà đạo khó nương thân
anh đành xưng quỉ sứ
lãnh đủ ngọn dao trần!
qua giáo đường kiếm Chúa
xin được làm chiên ngoan
Chúa cười run thánh giá
bảo: đầu ngươi có sừng!
đời chia muôn nhánh khổ
anh tận gốc gian nan

cô Bắc Kỳ nho nhỏ
mắt như trời bao dung
hãy nhìn anh thật rõ
trước khi nhìn đám đông
hãy nhìn sâu chút nữa
trước khi vào đám đông!

(1973)

(1972)
Hai năm tình lận đận


1.
Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông, hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau

Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng hư hao

Em không còn thắc bính
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn lýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư

Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau

Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao

2.
Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua

Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian mưa

Dù sao thì Chúa cũng
Một thời làm trai tơ
Dù sao thì Chúa cũng
Là đàn ông ... dại khờ

Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ
Nguyện làm cây thánh giá
Trên chót đỉnh nhà thờ

Cô đơn nhìn bụi bậm
Làm phân bón rêu xanh
Dù sao cây thánh giá
Cũng được người nhân danh

3.
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!

1972
Hạnh ngộ


Em hết thương ta rồi phải không ?
Thôi thế cho ta bớt não nùng
Thôi thế cho đời ta ngậm đắng
Còn nghe vị ngọt của tình nhân!

Ta có gì đâu ngoài khốn khổ
Ngoài vết thương thấm thía u tình
Yêu ai ta quấn dây oan nghiệt
Mặc sức nhân gian siết bạo tàn

Ta có gì đâu ngoài trái tim
Đem phơi hệ lụy giữa thanh thiên
Ngờ đâu thiên hạ vô tâm quá
Mua vui trên những nỗi đoạn trường

Thế nhân khắc nghiệt hơn ta tưởng
Em cũng vô tình nghiệt ngã theo
Yêu ai ta đốt thời niên thiếu
Bây giờ mang thảm kịch tàn tro

Em hết thương ta rồi phải không ?
Thôi thế cho ta chút mát lòng
Thôi thế cho ta còn bác ái
Còn tưởng tin người vì tưởng tin em...

(Biên Hoà, 09/04/78)
Lần đầu




Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau
Hôn em phớt nụ hôn liều
Bỗng nghe trật tự khá nhiều đổi thay
Ví dù nội cỏ ngàn cây
Cũng môi trường đúng mới khai lá cành
Mới đơm bông, mới trái lành
Như tôi hướng thiện bởi tình thăng hoa
Hôn em lén nụ bất ngờ
Âm ba thảng th





Monday May 19, 2008 - 11:36pm (ICT)