Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2008

GEORGIA: Điểm nóng của cuộc chiến tranh lạnh mới

Trần Đình Trung


Với sự tan rã của khối CS Đông Âu và sự sụp đổ của bức tường Berlin, Chiến tranh Lạnh dường như đã chấm dứt và nhân loại vui mầng đón đợi một trật tự thế giới mới trong đó các quốc gia sẽ sống với nhau trong hoà bình. Nhưng rồi những diễn biến xảy ra từ đó cho đến nay và, nhất là mới đây, cuộc xung đột Nga-Georgia đã làm cho niềm hy vọng đó tiêu tan dần. Mối tranh chấp giữ hai siêu cường Nga-Mỹ, sau một thời gian hoà dịu ngắn ngủi, bắt đầu bùng phát trở lại, trước đây ở Bosnia, Kosovo, và nay ở Georgia.

Như tin đã loan, hôm qua Quốc hội và Chính phủ Nga đã công khai thừa nhận sự độc lập của South Ossetia và Abkhazia, là hai vùng tự trị trước đây thuộc về Georgia. Mỹ và nhiều nước Âu Châu khác; nhất là các thành viên khối NATO đã phản đối và lên án mạnh mẽ sự thừa nhận chính thức của chính phủ Nga đối với hai lãnh thổ vừa nêu.

Một sự việc tương tự như vậy về việc thừa nhận sự độc lập của một lãnh thổ nhỏ khác đã xảy ra chỉ trước đây vài tháng ; đó là sự thừa nhận sự độc lập của Kosovo- một vùng trước kia thuộc về Liên bang Nam Tư của đa số người Serbian thân Nga- do Mỹ và các nước Âu Châu chính thức đưa ra. Nga đã phản đối mạnh mẽ sự thừa nhận đó.

Thừa nhận sự độc lập của một quốc gia là việc thực hiện nguyên tắc TỰ QUYẾT (self-determination) của các dân tộc; một nguyên tắc được đề cao trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Vậy tại sao việc thừa nhận Kosovo của Mỹ và NATO gặp phải sự phản đối của Nga và của Serbia; ngược lại sự thừa nhận của Nga đối với South Ossestia và Abkhzia lại bị Mỹ và NATO quyết liệt từ chối ? Có lẽ chỉ vì nguyên tắc dân tộc tự quyết đã bị các cường quốc lợi dụng như một chiêu bài vào việc tranh giành quyền lực của giữa họ với nhau. Chính trị quốc tế không có gì cao xa trừu tượng và khó hiểu; chỉ đơn giản là một sự đấu tranh quyền lực liên tục giữa các quốc gia; một cuộc tranh đấu mất còn trong đó sức mạnh là nền tảng để trên đó các nguyên tắc đạo lý, cuối cùng, sẽ được kẻ thắng thế giành lấy và giải thích theo cách có lợi cho mình.

NATO là một liên minh quân sự được lập ra vào năm 1949 với 10 hội viên do Mỹ lãnh đạo nhằm mục đích đối phó với khối quân sự VARSOVIE do Liên Xô đứng đầu. Trên nguyên tắc NATO là một liên minh để “ bảo vệ tự do, di sản văn hoá và văn minh chung của các dân tộc trong khối, xây dựng trên nguyên tắc của chế độ dân chủ, tự do cá nhân và pháp trị “ (to safeguard the freedom, common heritage and civilization of their peoples, founded on the principle of democracy, individual liberty, and the rule of law[i]

Thực tế, sự hiện hữu của NATO nhằm vào một mục đích đơn giản nặng tính chất địa lý chính trị hơn, như lời của Tổng Thư Ký đầu tiên của NATO, ông Lord Ismay, đã nói một cách trắng trợn : “ Để giữ người Mỹ ở lại,, đẩy người Nga ra ngoài, và ghìm người Đức xuống “ (To keep the Americans in, the Russians out, and the Germans down)[ii].

Sự hiện hữu của NATO, như vậy, về thực chất là phương tiện của Mỹ trong sự kế tục chính sách đã có trước đó của Đế quốc Anh đối với Âu châu trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, theo đó Anh Quốc nổ lực duy trì một sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia trên lục địa Âu Châu để không một nước nào, nhất là Nga và Đức, có thể trở nên quá mạnh, thống trị Châu Âu, và tranh giành địa vị bá chủ thế giới đối với mình. Anh Quốc luôn nổ lực để đặt Âu Châu dưới sự trọng tài và khống chế của mình. Phải thừa nhận rằng đế quốc Anh, với sự phối hợp tuyệt vời giữa sức mạnh của một hạm đội hùng mạnh nhất thế giới vào thời đó và nghệ thuật ngoại giao bậc thầy,đã rất thành công trong chính sách vừa nói, đặt Châu Âu dưới sự kiềm tỏa của họ trong một thời gian khá dài. Chính Anh quốc đã dùng chiến tranh Nga-Nhật để làm suy yếu Nga, sau đó khơi ngòi đệ nhất thế chiến để dìm Đức xuống. [iii]

Vì vậy, tuy Chiến tranh Lạnh kết thúc, khối Varsovie tan rã, khối NATO đã không hề giải tán, trái lại còn mở rộng ra hơn trước, tăng lên 26 quốc gia thành viên, bao gồm cả Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgary, Lithuania, Estonia và đang chuẩn bị nhận Ukraine và Georgia. Nghiã là thu tóm luôn cả những nước trước kia thuộc khối Varsovie, đồng minh lâu đời và là láng gìềng của Nga. Khối NATO, như vậy, đã bành trướng và mở rộng mục đích của mình.

Một trong những phương cách hữu hiệu để khối NATO mở rộng ảnh hưởng của mình và làm suy yếu Nga là gây bất ổn và khuyến khích sự ly khai ở các quốc gia nhỏ lân cận với Nga; Nam Tư là một ví du. Nam Tư một nước láng giềng thân cận của Nga, trước kia do đa số người Serbian lãnh đạo, sau Chiến tranh Lạnh đã bị xé ra từng mảnh nhỏ : Bosnia, Croatia, và Serbia. Bosnia lại bị nội chiến giữa người Serbs và người Albanians, tạo cơ hội cho NATO, dưới sự lãnh đạo của Mỹ, can thiệp. Cuối cùng, Kosovo tuyên bố độc lập, tách khỏi Bosnia trưóc sự phản đối tuyệt vọng của người Serbia.

Trong khi đó nước Nga, sau sự sụp đổ của Liên Xô, đã bị rơi vào một cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội trầm trọng. Sự phân ly giữa các nước Cộng hòa củ, giữa các lãnh thổ tự trị có các sắc dân khác nhau. Hối lộ tham những tràn lan, tội phạm kiểu Mafia lan rộng. Tình trạng kinh tế còn tệ hại hơn cả hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) gỉảm mất ½; vốn đầu tư sụt mất đến 80%; đa số dân Nga rơi vào cảnh nghèo; tử suất gia tăng. Lợi dụng tình trạng hổn độn và sự tư nhân hoá vội vàng của nền kinh tế, một thiểu số (oligarchs) tích luỹ tài sản, trở nên giàu có, thu tóm trong tay những nguồn vốn khổng lồ, câu kết với các ngân hàng ngọai quốc và với các tổ chức tài chánh quốc tế để tẩu tán tài sản ra ngoài hoặc bán rẽ tài nguyên quốc gia để thu lợi riêng.[iv]

Mặt khác, các tổ chức quốc tế như IMF (Quỷ tiền tệ quốc tế) và World Bank đã cố vấn một số chính sách kinh tế, tài chánh không phù hợp cho hoàn cảnh kinh tế của Nga, càng làm cho tình hình đó trở nên tồi tệ. Những “ bài thuốc” căn bản thường được IMF và World Bank kê toa cho các nước là điều chỉnh cấu trúc kinh tế (Structural Adjustment Programs), phá gía đồng bạc (Currency de-evaluation), cắt giảm chi tiêu công ích (Public spending cut), tư doanh hoá kinh tế (Privatization of economy), v.v…

Những “bài thuốc” này khi áp dụng vào nước Nga hậu-chiến-tranh-lạnh đã làm cho căn bệnh của nước này, không những không thuyên giảm, mà còn trở nên trầm trọng hơn. Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đã làm cho hàng triệu công nhân viên chức của chế độ trước đột ngột bị mất việc. Việc phá giá đồng bạc gây ra lạm phát làm điêu đứng đa số dân nghèo, và tạo cơ hội cho tư bản ngọai quốc thu mua nguyên vật liệu quốc gia với giá rẻ, gây thất thu lớn cho công quỷ. Nguồn tài nguyên lớn lao và quan trọng của Nga là dầu hỏa và khí đốt đã bị các cống ty dầu phương Tây tận lực khai thác trong giai đoạn này, thu về những món lợi tức khổng lồ; các công ty này đã tìm cách móc nối với các tay tài phiệt đang lên của Nga, qua mặt chính phủ, ký kết những hợp đồng kinh tế hết sức bất lợi cho quyền lợi nước Nga, nhưng mang lại món lợi khổng lồ cho họ. Chính trong thời kỳ này mà Boris Yeltsin đã được giới truyền thông Mỹ hết lời tán tụng.

Tận dụng sự khủng hoảng mọi mặt trên đây của nước Nga, khối NATO đã mở rộng vùng ảnh hưởng của mình, xâm nhập dần dần vào những vùng nằm chung quanh,từ lâu vốn không những chịu ảnh hưởng của Nga, nhưng còn là vùng đệm an ninh cho nước Nga đối với các cường quốc lân cận. Mỹ đã tuyên bố rằng vùng Caucasus, một vùng cách xa lục địa châu Mỹ đến hàng mấy ngàn miles, nhưng lại sát nách Nga, là vùng lợi ích quốc gia (American sphere of national interest) của mình. Ngày trước khoảng cách an toàn giữa NATO và Nga là hơn 1,200 miles, đến nay chỉ còn chừng hơn 60 miles!

Sự dồn ép đó của Mỹ và NATO lại đánh thức tinh thần dân tộc của người Nga, họ cảm thấy nền an ninh của họ bị đe doạ nghiêm trọng. Vì vậy, Boris Yeltsin phải nhường chỗ cho Vladimir Putin. Trước năm 1998, ít ai biết đến viên cựu sĩ quan tình báo KGB tên Putin. Năm 1998, Putin được cử chỉ huy Lực lượng An ninh Liên bang Nga; một hậu thân của KGB. 1999, Putin được Yeltsin chọn làm thủ tướng và cuối năm, khi Yeltsin từ chức, Putin trở thành Tổng Thống Nga.

Trưóc đó, trong thập niên 1990 Putin vừa làm vừa theo học tại Viện Hầm mỏ St. Peterburg, nơi từng là lò đào tạo các viên chức chính quyền ưu tú, hoàn thành luận án tiến sĩ có nhan đề “ Tài nguyên thiên nhiên trong chiến lược phát triển kinh tế Nga” (Mineral Raw Material in the Strategy for Development of the Russian Economy). Trong luận án đó, trái với quan điểm của nhiều kinh tế gia vẫn tin rằng sự tư hữu hoá và giảm thiểu sự kiểm soát của chính quyền giúp kích thích tăng trưởng kinh tế, Putin cho rằng, ít nhất trong lãnh vực tài nguyên thiên nhiên, việc sỡ hữu và giám sát của chính quyền là cần thiết trong việc phát triển kinh tế, ngăn ngừă việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên của nước Nga bởi các nhà đầu tư ngoại quốc hoặc bởi các lợi ích tư nhân ích kỷ.[v]

Cũng trong luận án đó, Putin quan niệm rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên không chỉ bảo đảm sự phát triển kính tế mà còn là yếu tố quyết định cho vị trí của nước Nga trên trường quốc tế. Tài nguyên thiên nhiên, theo Putin, trở thành yếu tố chiến lược (strategic factor), và tuy vẫn thừa nhận sự quan trọng của khu vực tư nhân, của đầu tư và kỹ thuật ngoại quốc, Putin chủ trương rằng lợi ích tư nhân phải phục tùng sự hướng dẩn của chính quyền và phục vụ lợi ích chung của toàn dân Nga.

Thực hiện quan điểm trên đây, khi lên làm tổng thống, đối tượng đầu tiên của Putin là Mikhail Khodorkovsky, người giàu nhất nước Nga và là Tổng giám đốc (CEO) Yukos, một công ty sản xuất dầu hỏa hàng đầu của Nga vào lúc đó. Khodorkovsky bị cáo buộc tội trốn thuế và gian lận, bị kết án 9 năm tù. Công ty Yukos bị quốc hữu hoá, các chi nhánh lần lượt nằm trong tay kiểm soát của chính phủ Nga. Khodorkovsky, cũng giống Putin, là ngôi sao mới lên từ sau thời mở cửa (glasnost) và cải cách (perestroika) của Gorbachev. Mới 26 tuổi đã thành lập một ngân hàng tư đầu tiên. Sau đó phất lên rất nhanh khi nhảy vào lãnh vực dầu hoả, đang dự trù mời Exxon và Chevron hùn vốn khai thác dầu hoả ở Siberia thì bị bắt.

Kế đến Putin nhắm vào công ty khí đốt lớn nhất của nước Nga, công ty Gazprom; sỡ hữu đến 16% khí đốt thiên nhiên của thế giới, cung cấp ¼ thuế lợi tức của Liên bang Nga. Từ 1993, Gazprom đã được tư hữu hoá một phần, chính phủ Nga chỉ còn giữ được chừng 39% cổ phần và có thành viên trong chủ tịch đoàn của công ty. Putin đã đưa người cộng sự thân tín là Dmitry Medvedev (nay là tổng thống Nga) vào Gazprom để tìm cách mua thêm cổ phần của công ty cho chính phủ Nga. Kết quả, chính phủ Nga đã sỡ hữu đa số cổ phần và nắm toàn quyền kiểm soát Gazrpom. Sau đó, Putin đã sử dụng các thủ tục pháp lý để loại dần ảnh hưởng của các tổ hợp (consortium) dầu hoả ngoại quốc như Shell, Exxon, BP ra khỏi các công trình dầu hỏa lớn của nước Nga, vô hiệu hoá các hợp đồng rất có lợi mà các tổ hợp này đã ký với chính phủ của Boris Yeltsin trước kia, xong rồi đưa Gazprom vào thay thế. Điển hình nhất là dự án khai thác dầu và khí đốt ở đảo Sakhaline nằm giữa Nga và Nhật Bản. Trữ lượng dầu và khí đốt ở đảo này ước tính tổng cộng chừng gần 30 tỉ thùng, một trữ lượng khá lớn. Trước kia tổ hợp Shell, BP, Exxon Mobil đã ký được với Boris Yeltsin những hợp đồng trị giá hàng trăm triệu dollars để khai thác Sakhaline theo quy chế Production Sharing Agreements (PSA). Đến nay, Gazprom của Putin đã thay thế các tổ hợp dầu đó trong việc khai thác Sakhaline.

Tóm lại, Putin từ ngày cầm quyền đã thực thi những quan điểm của Ông trong luận án tiến sĩ về vai trò của tài nguyên thiên trong việc phát triển kinh tế và phục hồi địa vị nước Nga trên trường quốc tế. Putin đã tận dụng ưu thế về dầu hỏa và khí đốt để ổn định kinh tế, thoát ra khỏi cái shock therapy về kinh tế mà Tây Phương, đứng đầu là Mỹ, đã khuyến nghị cho nước Nga trong thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh. Cùng với kinh tế ổn định, nước Nga, bắt đầu lấy lại được vị thế cường quốc của mình và phản công chống lại sự bành trướng của NATO. Georgia là chính là trận mở màn của Putin.

Tất nhiên Tây Phương không ưa gì Putin, nhất là của các giới chức trong chính phủ Mỹ. Báo chí Mỹ luôn có những nhận định tiêu cực về ông ta, gọi Ông là “ thug” (du côn), “ fascist” và “ Saddam Hussein”,v.v… và hô hào lật đổ Ông (regime change). Quan hệ giữa Tổng Thống Bush và Putin, sau thời kỳ đầm ấm của những năm sau 9/11 khi Mỹ còn cần Nga trong việc chống khủng bố và vấn đề Apghanistan, khi Bush còn nhìn vào mắt Putin và tìm thấy ở đó sự thẳng thắn và tin cậy (I looked the man in the eyes. I found him very straightforward and trustworthy (tuyên bố của Bush sau lần đầu hội đàm với Putin)), đã càng ngày càng trở nên thù địch.

Mặt khác,việc mở rộng khối NATO ra các nước cộng hoà sô viết cũ và có biên giới chung với Nga, việc đơn phương rút lui khỏi Hiệp ước Chống Hoả tiễn Đạn đạo (Anti-Ballistic Missile Treaty) đã ký trước đó và năm 1972, việc thiết lập hệ thống Phòng vệ Phi đạn (Missle Defense Systems) ở Tiệp Khắc, Ba Lan, ngay cửa ngỏ của Nga, việc hô hào đưa khả năng nguyên tử của Mỹ lên ngôi bá chủ (attain nuclear primary) và khả năng tiêu diệt kho vũ khí nguyên tử tầm xa của Nga-Hoa ngay với cú đánh đầu tiên (ability to destroy the long-range nuclear arsenals of Russia or China with a first strike), tất cả đã gây sự nghi kỵ ở người Nga về thái độ của Mỹ đối với nền an ninh của họ. Những thăm dò mới đây cho thấy chỉ còn 5% người Nga nghĩ rằng người Mỹ có thể là bạn của họ. Sự nghi ngờ này tạo ra tình hình căng thằng rất đáng ngại trong mối quan hệ giữa hai siêu cường đang nắm giữ trong tay hai kho vũ khí nguyên tử lớn nhất thế giới.

Việc Mỹ-Ba lan ký kết hiệp ước thiết lập hệ thống chống phi đạn (Missle defense systems) càng làm cho Nga nghi ngờ hơn. Tuy rằng Mỹ đã khẳng định nhiều lần rằng hệ thống đó chỉ dùng để chống các phi đạn của Iran, bảo vệ cho các quốc gia trong vùng, chứ không nhằm chống lại Nga. Nhưng Nga lại cho rằng bằng việc thiết lập hệ thống đó ở Ba Lan, Mỹ đã cố ý vô hiệu hoá khả năng phản công của Nga để đạt được 99% hiệu năng ưu thế của cú đánh phủ đầu một khi xung đột Nga-Mỹ xảy ra. Để đối phó, Nga đã cho tăng cường hệ thống hoả tiến nguyên tử chiến thuật và oanh tạc cơ chiến lưọc ở Belarus và vùng cực Tây của Nga. Mới đây, Tướng Victor Yesin, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng của Lực lượng Phi đạn Chiến lưọc Nga đã tuyên bố rằng : “ Một chương trình có thể được thực hiện để chế tạo các hoả tiễn đạn đạo quỷ đạo có khà năng bay đến Mỹ vòng qua Nam cực bỏ qua các căn cứ phòng không của Mỹ.” (A program could be implemented to create orbital ballistic missiles capable of reaching US territory via the South Pole, skirting US air defense bases)[vi]. Nga cũng đã hăm doạ sẽ có biện pháp quân sự với Ba Lan.

Tình hình căng thẳng trên đây gợi nhớ lại Vụ Khủng hoảng Phi đạn Cuba năm 1962 trong thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh, khi Khrushchev của Liên Xô lén đưa khoảng 45 hoả tiễn tầm trung mang đầu đạn nguyên tử vào Cuba, chỉ cách Mỹ 90 miles. Lần đó Thế giới đã sống suốt 14 ngày trong hãi hùng của một sự cân bằng khủng khiếp (balance of terror), chỉ cần một tính toán nhầm lẩn của một trong hai nhà lãnh đạo của hai siêu cường là nhân loại cùng toàn bộ nền văn minh đã có thể rơi vào vực thẳm của sụ diệt vong!

Việc đưa hoả tiễn nguyên tử của Khrushchev là nổ lực của Liên Xô nhằm đối phó lại với việc chính phủ Mỹ trước đó đặt 15 hoả tiễn tầm trung Jupiters mang đầu đạn nguyên tử ở Thổ Nhỉ Kỳ chỉ cách Moscow 16 phút bay.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong vụ Khủng hoảng Cuba nói ở trên là ông Robert Mc Namara, về sau này có viết một bài báo nhan đề Apocalypse Soon (Tận thế sớm), trong đó Ông bày tỏ mối lo ngại về tình trạng chạy đua vũ trang ngày nay giữa các cường quốc.

Theo Mc Namara thì hiện Mỹ có chừng 4,500 đầu đạn nguyên tử tấn công chiến lược (strategic offensive nuclear warheads), Nga có chừng 3,800; Anh, Pháp, Trung quốc mỗi nước có chừng từ 200 đến 400; Ấn Độ và Pakistan mỗi nước có gần 100. Mỗi đầu đạn có sức huỷ diệt tương đương với hơn 20 lần quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima năm 1945 (quả bom này nổ đã giết ngay lập tức gần 100,000 người !). Mỹ có khoảng 2000 đầu đạn luôn đặt trong tình trạng sẳn sàng để được phóng đi trong vòng 15 phút! Dưới thời Tổng Thống Kennedy, quá trình dẩn đến quyết định ra lệnh khai hoả vũ khí nguyên tử được Mc Namara mô tả như sau:

Vị Tư lệnh Không quân Chiến lược (US Strategic Air Command) luôn mang theo trong ngưòi, suốt ngày đêm, một điện thoại đặc biệt nối với một bộ chỉ huy nằm sâu dưới đất ở Colorado và với Tổng Thống. Bên cạnh Tổng Thống Mỹ luôn có sẳn mật mã khai hỏa nguyên tử được đặt trong một xách tay, mang mật danh Football, do một sĩ quan tuỳ viên mang. Vị Tư lệnh phải trả lời điện thoại đặc biệt đó trưóc tiếng reo thứ 3. Nếu vị Tư lệnh được báo là có tấn công nguyên tử, ông ta chỉ được cho 3 phút để xét xem báo động đó là thật hay giả, có thêm 10 phút để xác định vị trí xuất phát cuộc tấn công và quyết định những gì cần cố vấn cho Tổng Thống, và chờ đợi Tổng Thống tham khảo với Cố vấn An Ninh Quốc gia, Bộ Trưởng Quốc phòng và Chủ tịch Tham mưu Liên quân. Tổng Thống, nếu quyết định trả đủa, sẽ ra lệnh trở lại cho vị Tư lệnh để thi hành, vị tư lệnh sẽ truyền lệnh cùng với mật mã lại cho các dàn phóng để khai hỏa. Theo Mc Namara thì Tổng thống Mỹ, trong tình huống khẩn cấp như vậy, chỉ có 20 phút cho quyết định khai hỏa hệ thống phi đạn nguyên tử![vii]


Những gì Mc Namara mô tả ở trên thật kinh khủng. Nhưng những gì đang xảy ra trong thời gian qua làm cho nhiều người lo ngại rằng không chừng Georgia chính là điểm nóng đầu tiên của một cuộc chiến tranh lạnh mới của thế kỷ 21 với một mức độ khủng khiếp còn cao hơn trước bội phần.
(sưu tầm)



[i] Preamble to the North Atlantic Treaty of 1949.

[ii] http://www.brookings.edu/fp/projects/nato/reportch1.pdf.

[iii] William Engdahl, A Century of War, Pluto Press 1992.

[iv] www.thenation.com/doc/20060710.

[v] Michael T. Klare, Rising Powers Shrinking Planet, Metropolitan Book 2008.

[vi] http://globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=9836.

[vii] http://www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story_id=2829&page=1.

GEORGIA: Điểm nóng của cuộc chiến tranh lạnh mới

Trần Đình Trung


Với sự tan rã của khối CS Đông Âu và sự sụp đổ của bức tường Berlin, Chiến tranh Lạnh dường như đã chấm dứt và nhân loại vui mầng đón đợi một trật tự thế giới mới trong đó các quốc gia sẽ sống với nhau trong hoà bình. Nhưng rồi những diễn biến xảy ra từ đó cho đến nay và, nhất là mới đây, cuộc xung đột Nga-Georgia đã làm cho niềm hy vọng đó tiêu tan dần. Mối tranh chấp giữ hai siêu cường Nga-Mỹ, sau một thời gian hoà dịu ngắn ngủi, bắt đầu bùng phát trở lại, trước đây ở Bosnia, Kosovo, và nay ở Georgia.

Như tin đã loan, hôm qua Quốc hội và Chính phủ Nga đã công khai thừa nhận sự độc lập của South Ossetia và Abkhazia, là hai vùng tự trị trước đây thuộc về Georgia. Mỹ và nhiều nước Âu Châu khác; nhất là các thành viên khối NATO đã phản đối và lên án mạnh mẽ sự thừa nhận chính thức của chính phủ Nga đối với hai lãnh thổ vừa nêu.

Một sự việc tương tự như vậy về việc thừa nhận sự độc lập của một lãnh thổ nhỏ khác đã xảy ra chỉ trước đây vài tháng ; đó là sự thừa nhận sự độc lập của Kosovo- một vùng trước kia thuộc về Liên bang Nam Tư của đa số người Serbian thân Nga- do Mỹ và các nước Âu Châu chính thức đưa ra. Nga đã phản đối mạnh mẽ sự thừa nhận đó.

Thừa nhận sự độc lập của một quốc gia là việc thực hiện nguyên tắc TỰ QUYẾT (self-determination) của các dân tộc; một nguyên tắc được đề cao trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Vậy tại sao việc thừa nhận Kosovo của Mỹ và NATO gặp phải sự phản đối của Nga và của Serbia; ngược lại sự thừa nhận của Nga đối với South Ossestia và Abkhzia lại bị Mỹ và NATO quyết liệt từ chối ? Có lẽ chỉ vì nguyên tắc dân tộc tự quyết đã bị các cường quốc lợi dụng như một chiêu bài vào việc tranh giành quyền lực của giữa họ với nhau. Chính trị quốc tế không có gì cao xa trừu tượng và khó hiểu; chỉ đơn giản là một sự đấu tranh quyền lực liên tục giữa các quốc gia; một cuộc tranh đấu mất còn trong đó sức mạnh là nền tảng để trên đó các nguyên tắc đạo lý, cuối cùng, sẽ được kẻ thắng thế giành lấy và giải thích theo cách có lợi cho mình.

NATO là một liên minh quân sự được lập ra vào năm 1949 với 10 hội viên do Mỹ lãnh đạo nhằm mục đích đối phó với khối quân sự VARSOVIE do Liên Xô đứng đầu. Trên nguyên tắc NATO là một liên minh để “ bảo vệ tự do, di sản văn hoá và văn minh chung của các dân tộc trong khối, xây dựng trên nguyên tắc của chế độ dân chủ, tự do cá nhân và pháp trị “ (to safeguard the freedom, common heritage and civilization of their peoples, founded on the principle of democracy, individual liberty, and the rule of law[i]

Thực tế, sự hiện hữu của NATO nhằm vào một mục đích đơn giản nặng tính chất địa lý chính trị hơn, như lời của Tổng Thư Ký đầu tiên của NATO, ông Lord Ismay, đã nói một cách trắng trợn : “ Để giữ người Mỹ ở lại,, đẩy người Nga ra ngoài, và ghìm người Đức xuống “ (To keep the Americans in, the Russians out, and the Germans down)[ii].

Sự hiện hữu của NATO, như vậy, về thực chất là phương tiện của Mỹ trong sự kế tục chính sách đã có trước đó của Đế quốc Anh đối với Âu châu trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, theo đó Anh Quốc nổ lực duy trì một sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia trên lục địa Âu Châu để không một nước nào, nhất là Nga và Đức, có thể trở nên quá mạnh, thống trị Châu Âu, và tranh giành địa vị bá chủ thế giới đối với mình. Anh Quốc luôn nổ lực để đặt Âu Châu dưới sự trọng tài và khống chế của mình. Phải thừa nhận rằng đế quốc Anh, với sự phối hợp tuyệt vời giữa sức mạnh của một hạm đội hùng mạnh nhất thế giới vào thời đó và nghệ thuật ngoại giao bậc thầy,đã rất thành công trong chính sách vừa nói, đặt Châu Âu dưới sự kiềm tỏa của họ trong một thời gian khá dài. Chính Anh quốc đã dùng chiến tranh Nga-Nhật để làm suy yếu Nga, sau đó khơi ngòi đệ nhất thế chiến để dìm Đức xuống. [iii]

Vì vậy, tuy Chiến tranh Lạnh kết thúc, khối Varsovie tan rã, khối NATO đã không hề giải tán, trái lại còn mở rộng ra hơn trước, tăng lên 26 quốc gia thành viên, bao gồm cả Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgary, Lithuania, Estonia và đang chuẩn bị nhận Ukraine và Georgia. Nghiã là thu tóm luôn cả những nước trước kia thuộc khối Varsovie, đồng minh lâu đời và là láng gìềng của Nga. Khối NATO, như vậy, đã bành trướng và mở rộng mục đích của mình.

Một trong những phương cách hữu hiệu để khối NATO mở rộng ảnh hưởng của mình và làm suy yếu Nga là gây bất ổn và khuyến khích sự ly khai ở các quốc gia nhỏ lân cận với Nga; Nam Tư là một ví du. Nam Tư một nước láng giềng thân cận của Nga, trước kia do đa số người Serbian lãnh đạo, sau Chiến tranh Lạnh đã bị xé ra từng mảnh nhỏ : Bosnia, Croatia, và Serbia. Bosnia lại bị nội chiến giữa người Serbs và người Albanians, tạo cơ hội cho NATO, dưới sự lãnh đạo của Mỹ, can thiệp. Cuối cùng, Kosovo tuyên bố độc lập, tách khỏi Bosnia trưóc sự phản đối tuyệt vọng của người Serbia.

Trong khi đó nước Nga, sau sự sụp đổ của Liên Xô, đã bị rơi vào một cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội trầm trọng. Sự phân ly giữa các nước Cộng hòa củ, giữa các lãnh thổ tự trị có các sắc dân khác nhau. Hối lộ tham những tràn lan, tội phạm kiểu Mafia lan rộng. Tình trạng kinh tế còn tệ hại hơn cả hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) gỉảm mất ½; vốn đầu tư sụt mất đến 80%; đa số dân Nga rơi vào cảnh nghèo; tử suất gia tăng. Lợi dụng tình trạng hổn độn và sự tư nhân hoá vội vàng của nền kinh tế, một thiểu số (oligarchs) tích luỹ tài sản, trở nên giàu có, thu tóm trong tay những nguồn vốn khổng lồ, câu kết với các ngân hàng ngọai quốc và với các tổ chức tài chánh quốc tế để tẩu tán tài sản ra ngoài hoặc bán rẽ tài nguyên quốc gia để thu lợi riêng.[iv]

Mặt khác, các tổ chức quốc tế như IMF (Quỷ tiền tệ quốc tế) và World Bank đã cố vấn một số chính sách kinh tế, tài chánh không phù hợp cho hoàn cảnh kinh tế của Nga, càng làm cho tình hình đó trở nên tồi tệ. Những “ bài thuốc” căn bản thường được IMF và World Bank kê toa cho các nước là điều chỉnh cấu trúc kinh tế (Structural Adjustment Programs), phá gía đồng bạc (Currency de-evaluation), cắt giảm chi tiêu công ích (Public spending cut), tư doanh hoá kinh tế (Privatization of economy), v.v…

Những “bài thuốc” này khi áp dụng vào nước Nga hậu-chiến-tranh-lạnh đã làm cho căn bệnh của nước này, không những không thuyên giảm, mà còn trở nên trầm trọng hơn. Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đã làm cho hàng triệu công nhân viên chức của chế độ trước đột ngột bị mất việc. Việc phá giá đồng bạc gây ra lạm phát làm điêu đứng đa số dân nghèo, và tạo cơ hội cho tư bản ngọai quốc thu mua nguyên vật liệu quốc gia với giá rẻ, gây thất thu lớn cho công quỷ. Nguồn tài nguyên lớn lao và quan trọng của Nga là dầu hỏa và khí đốt đã bị các cống ty dầu phương Tây tận lực khai thác trong giai đoạn này, thu về những món lợi tức khổng lồ; các công ty này đã tìm cách móc nối với các tay tài phiệt đang lên của Nga, qua mặt chính phủ, ký kết những hợp đồng kinh tế hết sức bất lợi cho quyền lợi nước Nga, nhưng mang lại món lợi khổng lồ cho họ. Chính trong thời kỳ này mà Boris Yeltsin đã được giới truyền thông Mỹ hết lời tán tụng.

Tận dụng sự khủng hoảng mọi mặt trên đây của nước Nga, khối NATO đã mở rộng vùng ảnh hưởng của mình, xâm nhập dần dần vào những vùng nằm chung quanh,từ lâu vốn không những chịu ảnh hưởng của Nga, nhưng còn là vùng đệm an ninh cho nước Nga đối với các cường quốc lân cận. Mỹ đã tuyên bố rằng vùng Caucasus, một vùng cách xa lục địa châu Mỹ đến hàng mấy ngàn miles, nhưng lại sát nách Nga, là vùng lợi ích quốc gia (American sphere of national interest) của mình. Ngày trước khoảng cách an toàn giữa NATO và Nga là hơn 1,200 miles, đến nay chỉ còn chừng hơn 60 miles!

Sự dồn ép đó của Mỹ và NATO lại đánh thức tinh thần dân tộc của người Nga, họ cảm thấy nền an ninh của họ bị đe doạ nghiêm trọng. Vì vậy, Boris Yeltsin phải nhường chỗ cho Vladimir Putin. Trước năm 1998, ít ai biết đến viên cựu sĩ quan tình báo KGB tên Putin. Năm 1998, Putin được cử chỉ huy Lực lượng An ninh Liên bang Nga; một hậu thân của KGB. 1999, Putin được Yeltsin chọn làm thủ tướng và cuối năm, khi Yeltsin từ chức, Putin trở thành Tổng Thống Nga.

Trưóc đó, trong thập niên 1990 Putin vừa làm vừa theo học tại Viện Hầm mỏ St. Peterburg, nơi từng là lò đào tạo các viên chức chính quyền ưu tú, hoàn thành luận án tiến sĩ có nhan đề “ Tài nguyên thiên nhiên trong chiến lược phát triển kinh tế Nga” (Mineral Raw Material in the Strategy for Development of the Russian Economy). Trong luận án đó, trái với quan điểm của nhiều kinh tế gia vẫn tin rằng sự tư hữu hoá và giảm thiểu sự kiểm soát của chính quyền giúp kích thích tăng trưởng kinh tế, Putin cho rằng, ít nhất trong lãnh vực tài nguyên thiên nhiên, việc sỡ hữu và giám sát của chính quyền là cần thiết trong việc phát triển kinh tế, ngăn ngừă việc khai thác bừa bãi nguồn tài nguyên của nước Nga bởi các nhà đầu tư ngoại quốc hoặc bởi các lợi ích tư nhân ích kỷ.[v]

Cũng trong luận án đó, Putin quan niệm rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên không chỉ bảo đảm sự phát triển kính tế mà còn là yếu tố quyết định cho vị trí của nước Nga trên trường quốc tế. Tài nguyên thiên nhiên, theo Putin, trở thành yếu tố chiến lược (strategic factor), và tuy vẫn thừa nhận sự quan trọng của khu vực tư nhân, của đầu tư và kỹ thuật ngoại quốc, Putin chủ trương rằng lợi ích tư nhân phải phục tùng sự hướng dẩn của chính quyền và phục vụ lợi ích chung của toàn dân Nga.

Thực hiện quan điểm trên đây, khi lên làm tổng thống, đối tượng đầu tiên của Putin là Mikhail Khodorkovsky, người giàu nhất nước Nga và là Tổng giám đốc (CEO) Yukos, một công ty sản xuất dầu hỏa hàng đầu của Nga vào lúc đó. Khodorkovsky bị cáo buộc tội trốn thuế và gian lận, bị kết án 9 năm tù. Công ty Yukos bị quốc hữu hoá, các chi nhánh lần lượt nằm trong tay kiểm soát của chính phủ Nga. Khodorkovsky, cũng giống Putin, là ngôi sao mới lên từ sau thời mở cửa (glasnost) và cải cách (perestroika) của Gorbachev. Mới 26 tuổi đã thành lập một ngân hàng tư đầu tiên. Sau đó phất lên rất nhanh khi nhảy vào lãnh vực dầu hoả, đang dự trù mời Exxon và Chevron hùn vốn khai thác dầu hoả ở Siberia thì bị bắt.

Kế đến Putin nhắm vào công ty khí đốt lớn nhất của nước Nga, công ty Gazprom; sỡ hữu đến 16% khí đốt thiên nhiên của thế giới, cung cấp ¼ thuế lợi tức của Liên bang Nga. Từ 1993, Gazprom đã được tư hữu hoá một phần, chính phủ Nga chỉ còn giữ được chừng 39% cổ phần và có thành viên trong chủ tịch đoàn của công ty. Putin đã đưa người cộng sự thân tín là Dmitry Medvedev (nay là tổng thống Nga) vào Gazprom để tìm cách mua thêm cổ phần của công ty cho chính phủ Nga. Kết quả, chính phủ Nga đã sỡ hữu đa số cổ phần và nắm toàn quyền kiểm soát Gazrpom. Sau đó, Putin đã sử dụng các thủ tục pháp lý để loại dần ảnh hưởng của các tổ hợp (consortium) dầu hoả ngoại quốc như Shell, Exxon, BP ra khỏi các công trình dầu hỏa lớn của nước Nga, vô hiệu hoá các hợp đồng rất có lợi mà các tổ hợp này đã ký với chính phủ của Boris Yeltsin trước kia, xong rồi đưa Gazprom vào thay thế. Điển hình nhất là dự án khai thác dầu và khí đốt ở đảo Sakhaline nằm giữa Nga và Nhật Bản. Trữ lượng dầu và khí đốt ở đảo này ước tính tổng cộng chừng gần 30 tỉ thùng, một trữ lượng khá lớn. Trước kia tổ hợp Shell, BP, Exxon Mobil đã ký được với Boris Yeltsin những hợp đồng trị giá hàng trăm triệu dollars để khai thác Sakhaline theo quy chế Production Sharing Agreements (PSA). Đến nay, Gazprom của Putin đã thay thế các tổ hợp dầu đó trong việc khai thác Sakhaline.

Tóm lại, Putin từ ngày cầm quyền đã thực thi những quan điểm của Ông trong luận án tiến sĩ về vai trò của tài nguyên thiên trong việc phát triển kinh tế và phục hồi địa vị nước Nga trên trường quốc tế. Putin đã tận dụng ưu thế về dầu hỏa và khí đốt để ổn định kinh tế, thoát ra khỏi cái shock therapy về kinh tế mà Tây Phương, đứng đầu là Mỹ, đã khuyến nghị cho nước Nga trong thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh. Cùng với kinh tế ổn định, nước Nga, bắt đầu lấy lại được vị thế cường quốc của mình và phản công chống lại sự bành trướng của NATO. Georgia là chính là trận mở màn của Putin.

Tất nhiên Tây Phương không ưa gì Putin, nhất là của các giới chức trong chính phủ Mỹ. Báo chí Mỹ luôn có những nhận định tiêu cực về ông ta, gọi Ông là “ thug” (du côn), “ fascist” và “ Saddam Hussein”,v.v… và hô hào lật đổ Ông (regime change). Quan hệ giữa Tổng Thống Bush và Putin, sau thời kỳ đầm ấm của những năm sau 9/11 khi Mỹ còn cần Nga trong việc chống khủng bố và vấn đề Apghanistan, khi Bush còn nhìn vào mắt Putin và tìm thấy ở đó sự thẳng thắn và tin cậy (I looked the man in the eyes. I found him very straightforward and trustworthy (tuyên bố của Bush sau lần đầu hội đàm với Putin)), đã càng ngày càng trở nên thù địch.

Mặt khác,việc mở rộng khối NATO ra các nước cộng hoà sô viết cũ và có biên giới chung với Nga, việc đơn phương rút lui khỏi Hiệp ước Chống Hoả tiễn Đạn đạo (Anti-Ballistic Missile Treaty) đã ký trước đó và năm 1972, việc thiết lập hệ thống Phòng vệ Phi đạn (Missle Defense Systems) ở Tiệp Khắc, Ba Lan, ngay cửa ngỏ của Nga, việc hô hào đưa khả năng nguyên tử của Mỹ lên ngôi bá chủ (attain nuclear primary) và khả năng tiêu diệt kho vũ khí nguyên tử tầm xa của Nga-Hoa ngay với cú đánh đầu tiên (ability to destroy the long-range nuclear arsenals of Russia or China with a first strike), tất cả đã gây sự nghi kỵ ở người Nga về thái độ của Mỹ đối với nền an ninh của họ. Những thăm dò mới đây cho thấy chỉ còn 5% người Nga nghĩ rằng người Mỹ có thể là bạn của họ. Sự nghi ngờ này tạo ra tình hình căng thằng rất đáng ngại trong mối quan hệ giữa hai siêu cường đang nắm giữ trong tay hai kho vũ khí nguyên tử lớn nhất thế giới.

Việc Mỹ-Ba lan ký kết hiệp ước thiết lập hệ thống chống phi đạn (Missle defense systems) càng làm cho Nga nghi ngờ hơn. Tuy rằng Mỹ đã khẳng định nhiều lần rằng hệ thống đó chỉ dùng để chống các phi đạn của Iran, bảo vệ cho các quốc gia trong vùng, chứ không nhằm chống lại Nga. Nhưng Nga lại cho rằng bằng việc thiết lập hệ thống đó ở Ba Lan, Mỹ đã cố ý vô hiệu hoá khả năng phản công của Nga để đạt được 99% hiệu năng ưu thế của cú đánh phủ đầu một khi xung đột Nga-Mỹ xảy ra. Để đối phó, Nga đã cho tăng cường hệ thống hoả tiến nguyên tử chiến thuật và oanh tạc cơ chiến lưọc ở Belarus và vùng cực Tây của Nga. Mới đây, Tướng Victor Yesin, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng của Lực lượng Phi đạn Chiến lưọc Nga đã tuyên bố rằng : “ Một chương trình có thể được thực hiện để chế tạo các hoả tiễn đạn đạo quỷ đạo có khà năng bay đến Mỹ vòng qua Nam cực bỏ qua các căn cứ phòng không của Mỹ.” (A program could be implemented to create orbital ballistic missiles capable of reaching US territory via the South Pole, skirting US air defense bases)[vi]. Nga cũng đã hăm doạ sẽ có biện pháp quân sự với Ba Lan.

Tình hình căng thẳng trên đây gợi nhớ lại Vụ Khủng hoảng Phi đạn Cuba năm 1962 trong thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh, khi Khrushchev của Liên Xô lén đưa khoảng 45 hoả tiễn tầm trung mang đầu đạn nguyên tử vào Cuba, chỉ cách Mỹ 90 miles. Lần đó Thế giới đã sống suốt 14 ngày trong hãi hùng của một sự cân bằng khủng khiếp (balance of terror), chỉ cần một tính toán nhầm lẩn của một trong hai nhà lãnh đạo của hai siêu cường là nhân loại cùng toàn bộ nền văn minh đã có thể rơi vào vực thẳm của sụ diệt vong!

Việc đưa hoả tiễn nguyên tử của Khrushchev là nổ lực của Liên Xô nhằm đối phó lại với việc chính phủ Mỹ trước đó đặt 15 hoả tiễn tầm trung Jupiters mang đầu đạn nguyên tử ở Thổ Nhỉ Kỳ chỉ cách Moscow 16 phút bay.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong vụ Khủng hoảng Cuba nói ở trên là ông Robert Mc Namara, về sau này có viết một bài báo nhan đề Apocalypse Soon (Tận thế sớm), trong đó Ông bày tỏ mối lo ngại về tình trạng chạy đua vũ trang ngày nay giữa các cường quốc.

Theo Mc Namara thì hiện Mỹ có chừng 4,500 đầu đạn nguyên tử tấn công chiến lược (strategic offensive nuclear warheads), Nga có chừng 3,800; Anh, Pháp, Trung quốc mỗi nước có chừng từ 200 đến 400; Ấn Độ và Pakistan mỗi nước có gần 100. Mỗi đầu đạn có sức huỷ diệt tương đương với hơn 20 lần quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima năm 1945 (quả bom này nổ đã giết ngay lập tức gần 100,000 người !). Mỹ có khoảng 2000 đầu đạn luôn đặt trong tình trạng sẳn sàng để được phóng đi trong vòng 15 phút! Dưới thời Tổng Thống Kennedy, quá trình dẩn đến quyết định ra lệnh khai hoả vũ khí nguyên tử được Mc Namara mô tả như sau:

Vị Tư lệnh Không quân Chiến lược (US Strategic Air Command) luôn mang theo trong ngưòi, suốt ngày đêm, một điện thoại đặc biệt nối với một bộ chỉ huy nằm sâu dưới đất ở Colorado và với Tổng Thống. Bên cạnh Tổng Thống Mỹ luôn có sẳn mật mã khai hỏa nguyên tử được đặt trong một xách tay, mang mật danh Football, do một sĩ quan tuỳ viên mang. Vị Tư lệnh phải trả lời điện thoại đặc biệt đó trưóc tiếng reo thứ 3. Nếu vị Tư lệnh được báo là có tấn công nguyên tử, ông ta chỉ được cho 3 phút để xét xem báo động đó là thật hay giả, có thêm 10 phút để xác định vị trí xuất phát cuộc tấn công và quyết định những gì cần cố vấn cho Tổng Thống, và chờ đợi Tổng Thống tham khảo với Cố vấn An Ninh Quốc gia, Bộ Trưởng Quốc phòng và Chủ tịch Tham mưu Liên quân. Tổng Thống, nếu quyết định trả đủa, sẽ ra lệnh trở lại cho vị Tư lệnh để thi hành, vị tư lệnh sẽ truyền lệnh cùng với mật mã lại cho các dàn phóng để khai hỏa. Theo Mc Namara thì Tổng thống Mỹ, trong tình huống khẩn cấp như vậy, chỉ có 20 phút cho quyết định khai hỏa hệ thống phi đạn nguyên tử![vii]


Những gì Mc Namara mô tả ở trên thật kinh khủng. Nhưng những gì đang xảy ra trong thời gian qua làm cho nhiều người lo ngại rằng không chừng Georgia chính là điểm nóng đầu tiên của một cuộc chiến tranh lạnh mới của thế kỷ 21 với một mức độ khủng khiếp còn cao hơn trước bội phần.
(sưu tầm)



[i] Preamble to the North Atlantic Treaty of 1949.

[ii] http://www.brookings.edu/fp/projects/nato/reportch1.pdf.

[iii] William Engdahl, A Century of War, Pluto Press 1992.

[iv] www.thenation.com/doc/20060710.

[v] Michael T. Klare, Rising Powers Shrinking Planet, Metropolitan Book 2008.

[vi] http://globalresearch.ca/index.php?context=va&aid=9836.

[vii] http://www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story_id=2829&page=1.

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2008

Lịch sử là khoa học, không phải công cụ giáo dục tư tưởng


Giáo sư sử học Lê Văn Lan

* Là một nhà nghiên cứu lịch sử, theo ông, vì sao học sinh hiện nay không thích học môn lịch sử ?

- Ta không nên giải thích chuyện giới trẻ ngày nay không thích sử mà nên đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng ta đang thất bại trong việc dạy môn lịch sử cho học sinh?

* Thưa ông, “thất bại”- liệu có nặng nề quá không? Và theo ông nguyên nhân do đâu?

- Tôi nhận định là chúng ta thất bại trong việc dạy, giáo dục lịch sử trước hết là cho học sinh rồi sau đó là cho mọi người. Cái việc thất bại ấy có nguyên nhân đầu tiên là việc xây dựng chương trình. Từ lâu lắm rồi chúng ta làm chương trình giáo dục bộ môn lịch sử theo quan điểm, theo cách nhìn rằng đây là một vấn đề của hệ tư tưởng chứ không phải của một bộ môn khoa học. Hai cái này khác nhau. Ta dùng lịch sử để làm cái việc tuyên truyền quảng bá hệ tư tưởng mà hệ tư tưởng ở đây lại cũng còn một chiều... Trong khi lịch sử là một bộ môn khoa học mà như nhiều người nói nó lại còn là nghệ thuật, là văn học, văn hóa nữa.

* Như vậy là ngay từ đầu đã sai về quan niệm?

- Đúng! Đầu tiên đã có một quan điểm không đúng như thế thành ra mới làm ra một chương trình giáo dục lịch sử như là một công cụ để làm công tác tư tưởng, giáo dục tư tưởng cho trẻ con, như thế là lệch, cái lệch đầu tiên. Từ cái lệch đầu tiên về quan niệm thì nó sẽ tất yếu dẫn đến cái việc thứ 2 là biên soạn sách giáo khoa. Sách giáo khoa cũng chỉ là công cụ của cái quan niệm sai đầu tiên. Nó là sách để minh hoạ cho việc giáo dục hệ tư tưởng chứ không phải là sách để dạy khoa học lịch sử, tức là có cả khoa học, nghệ thuật, văn học và văn hoá.

* Nhưng còn vai trò của người thầy, tức là người truyền đạt kiến thức lịch sử cho học sinh, liệu có phải cũng do chương trình và sách giáo khoa?

- Cái thứ 3 khổ nhất là các thầy các cô, đang ở vào tình trạng mà ngay cả chúng tôi cũng thế. Đau đớn lắm, cay cú lắm về sự dốt nát của mình, nhất là khi tiếp xúc với các chuyên gia đúng là các nhà sử học nước ngoài thì cả một đời họ đắm đuối, họ hì hục chuyên tâm vào một vấn đề nào đó và họ thành chuyên gia đích thực. Còn ở ta những chuyên gia như thế này ít quá. Các nhà nghiên cứu còn thế thì với các thầy cô dạy phổ thông, tư chất của người dạy lịch sử là không có nhiều kiến thức lắm về lịch sử do đó họ cứ bám vào sách giáo khoa. Thậm chí có khi họ còn ca ngợi là sách hay quá. Tôi biết NXB Giáo dục đã phát hàng vạn phiếu thăm dò đến các nơi thì kết quả thu về khiến NXB trong khi lỗi lầm đầy ra đấy vẫn phổng mũi vì họ nhận được những ý kiến phản hồi đánh giá rất cao.

* Nhưng những người biên soạn sách giáo khoa là ai? Cũng đều là các nhà giáo và các nhà sử học đấy chứ?

Những người biên soạn sách giáo khoa là những người được "chỉ định thầu".

Vậy có thể thấy ý kiến Giáo sư là thế này: Đầu tiên là sai từ quan niệm, sau đó xây dựng chương trình sai, viết sách giáo khoa sai và trình độ giáo viên vừa hạn chế vừa phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa. Như thế thì cũng không thể trách đối tượng đối tượng tiếp nhận, học sinh không thuộc sử không phải là do chúng?

Đối tượng được hưởng thụ, bắt đầu từ quan niệm thế nào là sử, chương trình người ta nhồi cho chúng, rồi hưởng thụ sách giáo khoa mà người ta cũng nhồi cho chúng và cuối cùng là hưởng thụ sự truyền đạt của các thầy các cô. Tất cả hình thành một chuỗi khốn khổ và như thế thất bại là cái chắc.

* Thưa Giáo sư, với tất cả những điều ông vừa phân tích thì câu hỏi mà Đại đoàn kết đặt ra ở Diễn đàn này: “Dạy và học sử thế nào?”, nên tìm một câu trả lời thế nào?

Tôi có kiến nghị là chúng ta làm lại quy trình đi. Trước hết là phải thông với nhau thế nào là lịch sử? Và thế nào là giáo dục lịch sử trong nhà trường? Trước tiên là quan niệm sau đó xác định lại chương trình. Từ trước đến nay chúng ta hay kêu là ngành giáo dục chưa có chương trình chuẩn nhưng riêng với môn lịch sử thì đang có vấn đề còn lớn hơn cái không có chuẩn là nó đang phục vụ cho quan điểm không đúng về thế nào là lịch sử và giáo dục lịch sử trong nhà trường.

Kiến nghị thứ 2 là làm lại sách giáo khoa và kiến nghị thứ 3 là đào tạo lại các thầy cô. Cũng không dám nói là thầy cô không tốt nhưng đã tốt rồi xin đào tạo lại để tốt hơn nữa.

* Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

(Nguồn : báo Đại Đoàn Kết)

Lịch sử là khoa học, không phải công cụ giáo dục tư tưởng


Giáo sư sử học Lê Văn Lan

* Là một nhà nghiên cứu lịch sử, theo ông, vì sao học sinh hiện nay không thích học môn lịch sử ?

- Ta không nên giải thích chuyện giới trẻ ngày nay không thích sử mà nên đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng ta đang thất bại trong việc dạy môn lịch sử cho học sinh?

* Thưa ông, “thất bại”- liệu có nặng nề quá không? Và theo ông nguyên nhân do đâu?

- Tôi nhận định là chúng ta thất bại trong việc dạy, giáo dục lịch sử trước hết là cho học sinh rồi sau đó là cho mọi người. Cái việc thất bại ấy có nguyên nhân đầu tiên là việc xây dựng chương trình. Từ lâu lắm rồi chúng ta làm chương trình giáo dục bộ môn lịch sử theo quan điểm, theo cách nhìn rằng đây là một vấn đề của hệ tư tưởng chứ không phải của một bộ môn khoa học. Hai cái này khác nhau. Ta dùng lịch sử để làm cái việc tuyên truyền quảng bá hệ tư tưởng mà hệ tư tưởng ở đây lại cũng còn một chiều... Trong khi lịch sử là một bộ môn khoa học mà như nhiều người nói nó lại còn là nghệ thuật, là văn học, văn hóa nữa.

* Như vậy là ngay từ đầu đã sai về quan niệm?

- Đúng! Đầu tiên đã có một quan điểm không đúng như thế thành ra mới làm ra một chương trình giáo dục lịch sử như là một công cụ để làm công tác tư tưởng, giáo dục tư tưởng cho trẻ con, như thế là lệch, cái lệch đầu tiên. Từ cái lệch đầu tiên về quan niệm thì nó sẽ tất yếu dẫn đến cái việc thứ 2 là biên soạn sách giáo khoa. Sách giáo khoa cũng chỉ là công cụ của cái quan niệm sai đầu tiên. Nó là sách để minh hoạ cho việc giáo dục hệ tư tưởng chứ không phải là sách để dạy khoa học lịch sử, tức là có cả khoa học, nghệ thuật, văn học và văn hoá.

* Nhưng còn vai trò của người thầy, tức là người truyền đạt kiến thức lịch sử cho học sinh, liệu có phải cũng do chương trình và sách giáo khoa?

- Cái thứ 3 khổ nhất là các thầy các cô, đang ở vào tình trạng mà ngay cả chúng tôi cũng thế. Đau đớn lắm, cay cú lắm về sự dốt nát của mình, nhất là khi tiếp xúc với các chuyên gia đúng là các nhà sử học nước ngoài thì cả một đời họ đắm đuối, họ hì hục chuyên tâm vào một vấn đề nào đó và họ thành chuyên gia đích thực. Còn ở ta những chuyên gia như thế này ít quá. Các nhà nghiên cứu còn thế thì với các thầy cô dạy phổ thông, tư chất của người dạy lịch sử là không có nhiều kiến thức lắm về lịch sử do đó họ cứ bám vào sách giáo khoa. Thậm chí có khi họ còn ca ngợi là sách hay quá. Tôi biết NXB Giáo dục đã phát hàng vạn phiếu thăm dò đến các nơi thì kết quả thu về khiến NXB trong khi lỗi lầm đầy ra đấy vẫn phổng mũi vì họ nhận được những ý kiến phản hồi đánh giá rất cao.

* Nhưng những người biên soạn sách giáo khoa là ai? Cũng đều là các nhà giáo và các nhà sử học đấy chứ?

Những người biên soạn sách giáo khoa là những người được "chỉ định thầu".

Vậy có thể thấy ý kiến Giáo sư là thế này: Đầu tiên là sai từ quan niệm, sau đó xây dựng chương trình sai, viết sách giáo khoa sai và trình độ giáo viên vừa hạn chế vừa phụ thuộc vào chương trình và sách giáo khoa. Như thế thì cũng không thể trách đối tượng đối tượng tiếp nhận, học sinh không thuộc sử không phải là do chúng?

Đối tượng được hưởng thụ, bắt đầu từ quan niệm thế nào là sử, chương trình người ta nhồi cho chúng, rồi hưởng thụ sách giáo khoa mà người ta cũng nhồi cho chúng và cuối cùng là hưởng thụ sự truyền đạt của các thầy các cô. Tất cả hình thành một chuỗi khốn khổ và như thế thất bại là cái chắc.

* Thưa Giáo sư, với tất cả những điều ông vừa phân tích thì câu hỏi mà Đại đoàn kết đặt ra ở Diễn đàn này: “Dạy và học sử thế nào?”, nên tìm một câu trả lời thế nào?

Tôi có kiến nghị là chúng ta làm lại quy trình đi. Trước hết là phải thông với nhau thế nào là lịch sử? Và thế nào là giáo dục lịch sử trong nhà trường? Trước tiên là quan niệm sau đó xác định lại chương trình. Từ trước đến nay chúng ta hay kêu là ngành giáo dục chưa có chương trình chuẩn nhưng riêng với môn lịch sử thì đang có vấn đề còn lớn hơn cái không có chuẩn là nó đang phục vụ cho quan điểm không đúng về thế nào là lịch sử và giáo dục lịch sử trong nhà trường.

Kiến nghị thứ 2 là làm lại sách giáo khoa và kiến nghị thứ 3 là đào tạo lại các thầy cô. Cũng không dám nói là thầy cô không tốt nhưng đã tốt rồi xin đào tạo lại để tốt hơn nữa.

* Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

(Nguồn : báo Đại Đoàn Kết)

Đồ rê mí 2008


Xem trên truyền hình, kết thúc vòng …mấy của Đồ rê mí. Các cháu diễn thật tài và phần lớn rất hồn nhiên. Thế rồi đến cái giờ phút công bố thí sinh loạt vào vòng trong. Tôi không ngờ hậu quả lại nặng nề đến vậy. Trong số 10 cháu, 4 cháu bị loại đã khóc nức nở, tức tưởi, đau đớn làm các cháu còn lại, phụ huynh, ban giám khảo, khán giả xem truyền hình cũng không cầm được nước mắt. “Vì sao con khóc?” Nếu Bụt có hỏi cũng không giúp được gì các con đâu. Các con dự thi vì bố mẹ các con, có thể các con cũng muốn thế mà. Các cháu có thể khóc vì buồn phải xa các bạn, thầy cô sau hàng tháng cùng chung sinh hoạt và tập luyện. Nhưng lý do chính hơn hết đã thể hiện là các em cảm thấy nỗi đau của kẻ thất bại, sự bất lực của bản thân, kỳ vọng của cha mẹ đã không được đền đáp. Phải đồng ý là các cháu được vào đều xứng đáng, nhưng các cháu còn lại không phải là tệ, nếu không nói là cũng thật xuất sắc- các cháu là những thiên thần. Các cháu và bố mẹ các cháu đều có quyền tự hào về sự thông minh, tài năng sức lực mà ở lứa tuổi các cháu đang có. Thế thì lý do gì mà phải để các cháu ở cái lứa tuổi trong sáng đó lại phải có những nỗi đau đầu đời, những cú sốc như thế. Có chị bạn tôi biết đã bỏ ra hàng chục triệu đồng để mua đàn và để cho con “luyện thi cấp tốc” vào Đồ rê mí, “may” mà cháu đã không đi tiếp vào vòng trong. Vì nếu cháu được vào tiếp vòng trong chị sẽ tốn kém hơn, và biểu hiện của hôm nay tôi thấy có cái gì đó hơi tàn nhẫn. Sự thất bại hôm nay liệu có đem lại cho các cháu nghị lực của ngày mai hay không, hay là tuổi thơ hồn nhiên của các cháu, niềm vui hạnh phúc của các cháu đã bị lòng tham của sự nổi tiếng và danh vọng làm thương tổn? Tôi không muốn thấy những giọt nước mắt đã chảy. Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.


Đồ rê mí 2008


Xem trên truyền hình, kết thúc vòng …mấy của Đồ rê mí. Các cháu diễn thật tài và phần lớn rất hồn nhiên. Thế rồi đến cái giờ phút công bố thí sinh loạt vào vòng trong. Tôi không ngờ hậu quả lại nặng nề đến vậy. Trong số 10 cháu, 4 cháu bị loại đã khóc nức nở, tức tưởi, đau đớn làm các cháu còn lại, phụ huynh, ban giám khảo, khán giả xem truyền hình cũng không cầm được nước mắt. “Vì sao con khóc?” Nếu Bụt có hỏi cũng không giúp được gì các con đâu. Các con dự thi vì bố mẹ các con, có thể các con cũng muốn thế mà. Các cháu có thể khóc vì buồn phải xa các bạn, thầy cô sau hàng tháng cùng chung sinh hoạt và tập luyện. Nhưng lý do chính hơn hết đã thể hiện là các em cảm thấy nỗi đau của kẻ thất bại, sự bất lực của bản thân, kỳ vọng của cha mẹ đã không được đền đáp. Phải đồng ý là các cháu được vào đều xứng đáng, nhưng các cháu còn lại không phải là tệ, nếu không nói là cũng thật xuất sắc- các cháu là những thiên thần. Các cháu và bố mẹ các cháu đều có quyền tự hào về sự thông minh, tài năng sức lực mà ở lứa tuổi các cháu đang có. Thế thì lý do gì mà phải để các cháu ở cái lứa tuổi trong sáng đó lại phải có những nỗi đau đầu đời, những cú sốc như thế. Có chị bạn tôi biết đã bỏ ra hàng chục triệu đồng để mua đàn và để cho con “luyện thi cấp tốc” vào Đồ rê mí, “may” mà cháu đã không đi tiếp vào vòng trong. Vì nếu cháu được vào tiếp vòng trong chị sẽ tốn kém hơn, và biểu hiện của hôm nay tôi thấy có cái gì đó hơi tàn nhẫn. Sự thất bại hôm nay liệu có đem lại cho các cháu nghị lực của ngày mai hay không, hay là tuổi thơ hồn nhiên của các cháu, niềm vui hạnh phúc của các cháu đã bị lòng tham của sự nổi tiếng và danh vọng làm thương tổn? Tôi không muốn thấy những giọt nước mắt đã chảy. Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.


Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2008

Bí mật của những trò ảo thuật

Trên sân khấu, nhà ảo thuật tuyên bố sẽ biến chiếc váy trắng của nữ phụ tá đang mặc thành váy đỏ. Đầu tiên, ông chiếu đèn pha màu đỏ vào cô gái. Rồi điều kỳ diệu xảy ra: khi đèn đỏ tắt đi, cô thật sự đứng trong chiếc váy đỏ. Điều gì đã xảy ra?

Qua nhiều thế kỷ, các nhà ảo thuật đã phát triển nhiều phương cách để đánh lừa trí óc con người. Giờ đây các nhà khoa học thần kinh bắt đầu quan tâm đến họ: Xảo thuật của họ giúp giải thích việc nhận thức trong não hoạt động ra sao.

Apollo Robbins, một kẻ móc túi cũng là một nhà nghệ thuật. Ông đã theo đuổi cách dàn dựng được phát triển cao độ để móc ví tiền của nạn nhân trong túi áo hay tháo trộm đồng hồ đeo tay.

Giá trị tiêu khiển cao của nghề nghiệp đã tạo cơ hội cho ông công khai hóa nghề của mình: Trong cuộc sống thứ hai như là nhà ảo thuật, Robbins xuất hiện sáng ngời trước nhiều khán giả có địa vị cao - thí dụ như khi ông đánh lừa nhân viên an ninh bí mật của Jimmy Carter ngay trước mắt vị cựu tổng thống, giống như lừa những cụ già đã về hưu.

Nhà ảo thuật Klok đang làm biến mất một phụ nữ: Không thể giải thích bằng khéo tay. Ảnh: DPA.

Và bây giờ kẻ cắp lang thang này còn đến với khoa học nữa, vì khả năng ảo thuật như Robbins - làm cho người khác lẫn lộn hay đánh lừa họ hoàn toàn - đã làm các nhà khoa học thần kinh chú ý.

Chẳng hạn Robbins có thể đánh lừa cảm nhận của người bị đánh cắp. Tuy không biết gì nhiều về kết nối của các dây thần kinh, nhưng rõ ràng ông đã theo trực giác mà làm đúng tất cả:

Trên đường tìm "con mồi", thay vì rình mò cố gắng không gây sự chú ý từ phia sau lưng nạn nhân, ông đổ xô đến người đang trong tầm ngắm. Nạn nhân vẫn còn đang không hay biết gì - bị va chạm, bị sờ mó, bị nhìn trừng trừng hay bị chen lấn, thì Apollo có thể đã nhẹ nhàng bóp cổ tay của người đang đeo chiếc đồng hồ đắt tiền – để rồi ngay sau đó lấy đi vật trang sức xa xỉ không chút nhọc công và không hề bị phát giác.

Ông làm việc đó như thế nào?

Đầu tiên, kẻ cắp táo bạo này lái sự chú ý của nạn nhân sang hướng khác qua va chạm, các nhà thần kinh học Stephen Macknik và Susana Martinez-Conde của Viện thần kinh Barrow trong Phoenix, Arizona (Mỹ) giải thích trong một nghiên cứu vừa được công bố.

Việc bóp vào cổ tay để lại trên da của người bị đánh cắp một dấu ấn cảm ứng vẫn còn có tác động vài giây sau đấy. "Điều này tạo nên ảo tưởng là chiếc đồng hồ vẫn còn ở đó ngay khi nó đã biến mất từ lâu rồi", các nhà nghiên cứu phân tích xảo thuật.

Macknik và Martinez-Conde nhận ra rằng trong khán giả vẫn còn phổ biến sự hiểu lầm là xảo thuật thuyết phục được chủ yếu là dựa vào khéo tay và trình diễn nhanh chóng. Chỉ cần nhìn cho thật chính xác là có thể lật tẩy được các thủ thuật, quan niệm chung là như vậy.

Thế nhưng lần trình diễn thành công của một nhà ảo thuật không chỉ là kết quả của một dây thần kinh thị giác đang bị quá tải. Đúng hơn là có nhiều cơ chế riêng rẽ của sự cảm nhận đã bị các mánh khóe lừa bịp, các nhà nghiên cứu não tin như vậy. "Nhiều xảo thuật đã diễn ra khi khán giả còn nghĩ rằng nó chưa bắt đầu", Macknik và Martinez-Conde tuyên bố.

Các nhà tâm lý học của Đại học Durham (Anh) đã xem xét thí dụ như một trò ảo thuật mà trong đó một quả bóng được ném lên biến mất trong lúc còn đang bay. Đầu tiên, nhà ảo thuật chỉ liên tục ném quả bóng lên rồi lại bắt lấy nó – không thật là lôi cuốn.

Nhưng ngược lại, ở lần cuối cùng nhà ảo thuật chỉ làm ra vẻ ném quả bóng đi, thật ra là ông dấu nó trong tay. Thế nhưng điệu bộ của ông vẫn theo dõi đường bay bằng cách quay đầu đi một cách rõ rệt. Vì thế mà ông làm cho khán giả tin rằng quả bóng đã được ném lên và đã biến mất.

Không chỉ con người bị xảo thuật đánh lừa

Ảo thuật thành công không chỉ ở con người. Mỗi ngày hằng ngàn con chó cũng phải chịu đựng thí nghiệm này và chạy đi tìm cây gậy nhỏ vô hình. Ảo giác thành công là do lỗi của những dây thần kinh đã phản ứng tương tự nhau trước những chuyển động thật sự và những điệu bộ chỉ giống như vậy.

Thêm vào đó, tại những lần bị đánh lừa có mục đích này, bộ não còn là nạn nhân của một cơ chế bảo vệ từ sự tiến hóa, như nhà tâm lý học Gustav Kuhn từ Đại học Durham giải thích. Một xung lực thần kinh cần trung bình 100 mili giây để thật sự "đến" được nhận thức.

"Bộ não bù trừ vào khoảng thời gian này bằng cách dự đoán trước diễn tiến của sự kiện.", Kuhn nói.

Chiến lược tính toán trước này có tầm quan trọng sống còn trong những tình huống cần đến phản ứng nhanh chóng, thí dụ như trong giao thông – "nhưng cũng làm cho dự tính sai lầm dễ xảy ra", theo ông Kuhn.

Chiếc váy đổi màu

Thêm vào đó, các nhà nghiên cứu não ngày càng thiên về quan điểm cho rằng sự nhận thức của con người bao gồm một dãy những tấm ảnh chụp trong khoảng khắc được đặt liền nhau, nhiều hơn là người ta phỏng đoán trước nay. Một xảo thuật của ông Great Tomsoni cung cấp bằng chứng rõ rệt cho lý thuyết này.

Bậc thầy ảo thuật mời nữ phụ tá lên sân khấu và tuyên bố ý định biến chiếc váy trắng của cô thành một chiếc váy đỏ. Phép biến đổi thành công nhờ vào một lời nói đùa: Sau khi tắt đèn, ông Tomsoni chiếu một đèn pha màu đỏ vào người phụ nữ đang mặc váy trắng.

Nhưng rồi điều kỳ diệu xảy ra: Khi hệ thống chiếu sáng bình thường của sân khấu được bật lên và chiếc đèn pha màu đỏ được tắt đi, người phụ nữ thật sự đứng đấy trong chiếc váy màu đỏ. Điều gì đã xảy ra?

Người phụ tá nhanh nhẹn đã lợi dụng khoảng khắc giữa lúc đèn pha đỏ được tắt đi và ánh sáng chính bật lên để tháo chiếc váy trắng ra, để lộ chiếc váy đỏ mặc bên trong.

Khán giả hoàn toàn không nhận ra khoảng khắc thay đổi xiêm y này. Vẫn còn có tác động vài phần ngắn ngủi của một giây trong bộ não của người xem là hình ảnh của hiệu ứng của ánh sáng đèn pha đỏ trên chiếc váy trắng – ảo thuật của khoảng khắc.

Các nhà nghiên cứu tin rằng những xảo thuật đánh lừa tập thể khán giả như thế sẽ mang lại lợi ích trực tiếp cho họ: Họ muốn dùng những kỹ xảo sân khấu để gây ảnh hưởng có chủ đích đến sự chú ý và cảm nhận của con người trong phòng thí nghiệm. Qua đo đạc dòng điện trong não trong lúc thí nghiệm họ hy vọng rằng cuối cùng sẽ tìm được một cơ sở của thần kinh học cho sự nhận thức rất khó hiểu của con người.

Vnexpress (theo Spiegel Online)

Bí mật của những trò ảo thuật

Trên sân khấu, nhà ảo thuật tuyên bố sẽ biến chiếc váy trắng của nữ phụ tá đang mặc thành váy đỏ. Đầu tiên, ông chiếu đèn pha màu đỏ vào cô gái. Rồi điều kỳ diệu xảy ra: khi đèn đỏ tắt đi, cô thật sự đứng trong chiếc váy đỏ. Điều gì đã xảy ra?

Qua nhiều thế kỷ, các nhà ảo thuật đã phát triển nhiều phương cách để đánh lừa trí óc con người. Giờ đây các nhà khoa học thần kinh bắt đầu quan tâm đến họ: Xảo thuật của họ giúp giải thích việc nhận thức trong não hoạt động ra sao.

Apollo Robbins, một kẻ móc túi cũng là một nhà nghệ thuật. Ông đã theo đuổi cách dàn dựng được phát triển cao độ để móc ví tiền của nạn nhân trong túi áo hay tháo trộm đồng hồ đeo tay.

Giá trị tiêu khiển cao của nghề nghiệp đã tạo cơ hội cho ông công khai hóa nghề của mình: Trong cuộc sống thứ hai như là nhà ảo thuật, Robbins xuất hiện sáng ngời trước nhiều khán giả có địa vị cao - thí dụ như khi ông đánh lừa nhân viên an ninh bí mật của Jimmy Carter ngay trước mắt vị cựu tổng thống, giống như lừa những cụ già đã về hưu.

Nhà ảo thuật Klok đang làm biến mất một phụ nữ: Không thể giải thích bằng khéo tay. Ảnh: DPA.

Và bây giờ kẻ cắp lang thang này còn đến với khoa học nữa, vì khả năng ảo thuật như Robbins - làm cho người khác lẫn lộn hay đánh lừa họ hoàn toàn - đã làm các nhà khoa học thần kinh chú ý.

Chẳng hạn Robbins có thể đánh lừa cảm nhận của người bị đánh cắp. Tuy không biết gì nhiều về kết nối của các dây thần kinh, nhưng rõ ràng ông đã theo trực giác mà làm đúng tất cả:

Trên đường tìm "con mồi", thay vì rình mò cố gắng không gây sự chú ý từ phia sau lưng nạn nhân, ông đổ xô đến người đang trong tầm ngắm. Nạn nhân vẫn còn đang không hay biết gì - bị va chạm, bị sờ mó, bị nhìn trừng trừng hay bị chen lấn, thì Apollo có thể đã nhẹ nhàng bóp cổ tay của người đang đeo chiếc đồng hồ đắt tiền – để rồi ngay sau đó lấy đi vật trang sức xa xỉ không chút nhọc công và không hề bị phát giác.

Ông làm việc đó như thế nào?

Đầu tiên, kẻ cắp táo bạo này lái sự chú ý của nạn nhân sang hướng khác qua va chạm, các nhà thần kinh học Stephen Macknik và Susana Martinez-Conde của Viện thần kinh Barrow trong Phoenix, Arizona (Mỹ) giải thích trong một nghiên cứu vừa được công bố.

Việc bóp vào cổ tay để lại trên da của người bị đánh cắp một dấu ấn cảm ứng vẫn còn có tác động vài giây sau đấy. "Điều này tạo nên ảo tưởng là chiếc đồng hồ vẫn còn ở đó ngay khi nó đã biến mất từ lâu rồi", các nhà nghiên cứu phân tích xảo thuật.

Macknik và Martinez-Conde nhận ra rằng trong khán giả vẫn còn phổ biến sự hiểu lầm là xảo thuật thuyết phục được chủ yếu là dựa vào khéo tay và trình diễn nhanh chóng. Chỉ cần nhìn cho thật chính xác là có thể lật tẩy được các thủ thuật, quan niệm chung là như vậy.

Thế nhưng lần trình diễn thành công của một nhà ảo thuật không chỉ là kết quả của một dây thần kinh thị giác đang bị quá tải. Đúng hơn là có nhiều cơ chế riêng rẽ của sự cảm nhận đã bị các mánh khóe lừa bịp, các nhà nghiên cứu não tin như vậy. "Nhiều xảo thuật đã diễn ra khi khán giả còn nghĩ rằng nó chưa bắt đầu", Macknik và Martinez-Conde tuyên bố.

Các nhà tâm lý học của Đại học Durham (Anh) đã xem xét thí dụ như một trò ảo thuật mà trong đó một quả bóng được ném lên biến mất trong lúc còn đang bay. Đầu tiên, nhà ảo thuật chỉ liên tục ném quả bóng lên rồi lại bắt lấy nó – không thật là lôi cuốn.

Nhưng ngược lại, ở lần cuối cùng nhà ảo thuật chỉ làm ra vẻ ném quả bóng đi, thật ra là ông dấu nó trong tay. Thế nhưng điệu bộ của ông vẫn theo dõi đường bay bằng cách quay đầu đi một cách rõ rệt. Vì thế mà ông làm cho khán giả tin rằng quả bóng đã được ném lên và đã biến mất.

Không chỉ con người bị xảo thuật đánh lừa

Ảo thuật thành công không chỉ ở con người. Mỗi ngày hằng ngàn con chó cũng phải chịu đựng thí nghiệm này và chạy đi tìm cây gậy nhỏ vô hình. Ảo giác thành công là do lỗi của những dây thần kinh đã phản ứng tương tự nhau trước những chuyển động thật sự và những điệu bộ chỉ giống như vậy.

Thêm vào đó, tại những lần bị đánh lừa có mục đích này, bộ não còn là nạn nhân của một cơ chế bảo vệ từ sự tiến hóa, như nhà tâm lý học Gustav Kuhn từ Đại học Durham giải thích. Một xung lực thần kinh cần trung bình 100 mili giây để thật sự "đến" được nhận thức.

"Bộ não bù trừ vào khoảng thời gian này bằng cách dự đoán trước diễn tiến của sự kiện.", Kuhn nói.

Chiến lược tính toán trước này có tầm quan trọng sống còn trong những tình huống cần đến phản ứng nhanh chóng, thí dụ như trong giao thông – "nhưng cũng làm cho dự tính sai lầm dễ xảy ra", theo ông Kuhn.

Chiếc váy đổi màu

Thêm vào đó, các nhà nghiên cứu não ngày càng thiên về quan điểm cho rằng sự nhận thức của con người bao gồm một dãy những tấm ảnh chụp trong khoảng khắc được đặt liền nhau, nhiều hơn là người ta phỏng đoán trước nay. Một xảo thuật của ông Great Tomsoni cung cấp bằng chứng rõ rệt cho lý thuyết này.

Bậc thầy ảo thuật mời nữ phụ tá lên sân khấu và tuyên bố ý định biến chiếc váy trắng của cô thành một chiếc váy đỏ. Phép biến đổi thành công nhờ vào một lời nói đùa: Sau khi tắt đèn, ông Tomsoni chiếu một đèn pha màu đỏ vào người phụ nữ đang mặc váy trắng.

Nhưng rồi điều kỳ diệu xảy ra: Khi hệ thống chiếu sáng bình thường của sân khấu được bật lên và chiếc đèn pha màu đỏ được tắt đi, người phụ nữ thật sự đứng đấy trong chiếc váy màu đỏ. Điều gì đã xảy ra?

Người phụ tá nhanh nhẹn đã lợi dụng khoảng khắc giữa lúc đèn pha đỏ được tắt đi và ánh sáng chính bật lên để tháo chiếc váy trắng ra, để lộ chiếc váy đỏ mặc bên trong.

Khán giả hoàn toàn không nhận ra khoảng khắc thay đổi xiêm y này. Vẫn còn có tác động vài phần ngắn ngủi của một giây trong bộ não của người xem là hình ảnh của hiệu ứng của ánh sáng đèn pha đỏ trên chiếc váy trắng – ảo thuật của khoảng khắc.

Các nhà nghiên cứu tin rằng những xảo thuật đánh lừa tập thể khán giả như thế sẽ mang lại lợi ích trực tiếp cho họ: Họ muốn dùng những kỹ xảo sân khấu để gây ảnh hưởng có chủ đích đến sự chú ý và cảm nhận của con người trong phòng thí nghiệm. Qua đo đạc dòng điện trong não trong lúc thí nghiệm họ hy vọng rằng cuối cùng sẽ tìm được một cơ sở của thần kinh học cho sự nhận thức rất khó hiểu của con người.

Vnexpress (theo Spiegel Online)

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2008

Hoa hậu Thùy Dung "bị nghi ngờ" vi phạm quy chế

Quy chế tổ chức thi hoa hậu hiện hành quy định, thí sinh dự thi phải có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên. Vì vậy, thông tin tân Hoa hậu Trần Thị Thùy Dung chưa hoàn thành bậc học phổ thông đã làm dấy lên băn khoăn, liệu cô có vi phạm quy chế?

Thùy Dung đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2008 trong đêm chung kết 31/8. Ngay sau đó, nhiều diễn đàn trên mạng xôn xao, người đẹp Đà Nẵng chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, vi phạm quy chế Tổ chức thi Hoa hậu số 37/2006/ QĐ-BVHTT do Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch) ban hành ngày 24/3/2006.

Thùy Dung sau ngày đăng quang. Ảnh: H.V.
Thùy Dung sau ngày đăng quang. Ảnh: H.V.

Chưa hết hạnh phúc vì chiến thắng của con gái út, gia đình Thùy Dung chìm vào không khí buồn bã và lo lắng trước những nghi vấn dồn dập về trình độ học vấn của cô. Bố của tân hoa hậu, ông Trần Văn Liễu, từ chối trả lời báo giới. Mẹ cô, bà Mai Thị Bích Hà, giọng mệt mỏi nói: “Tôi rất buồn trước những thông tin như vậy. Nhưng giờ cháu đã là Hoa hậu, nên mọi vấn đề khúc mắc về cuộc thi xin hãy liên hệ Ban tổ chức”.

Trước khi đến với cuộc thi, Thùy Dung từng là học sinh trường THPT tư thục Quang Trung, Đà Nẵng. Trao đổi với VnExpress.net, ông Phạm Sỹ Liêm, Hiệu trưởng nhà trường, khẳng định: “Học kỳ I năm 2007-2008, khi đang học lớp 12, Thùy Dung nghỉ học, xin rút hồ sơ ở trường với lý do bổ sung hồ sơ du học ở Mỹ. Vì vậy, em chưa tốt nghiệp phổ thông”.

Như vậy liệu Hoa hậu có vi phạm quy chế cuộc thi? Quy chế số 37/2006/ QĐ-BVHTT nêu rõ, thí sinh dự thi hoa hậu phải “Có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên” (Điều 4, khoản 2, mục 2.2). Tuy nhiên, điều 4 Thể lệ cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 quy định, đối tượng dự thi chỉ cần có “Trình độ học vấn từ phổ thông trung học trở lên”. Vì vậy, khi đọc thể lệ, bà Bích Hà và cá nhân Thùy Dung đều cho rằng, cô có đủ điều kiện để dự thi hoa hậu.

Trích thể lệ cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 của báo Tiền Phong.

Trao đổi với VnExpress.net, ông Nguyễn Văn Khánh - Cục phó Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch - cho biết, theo quy chế, thí sinh hoa hậu phải có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, tương đương với cụm từ “Có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên”.

Tuy nhiên, nếu nói như thể lệ mà Ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 đưa ra: “có trình độ học vấn từ phổ thông trung học trở lên” thì theo ông Khánh có thể hiểu là áp dụng với cả những người đang theo học bậc Trung học phổ thông. Ông còn cho hay, đây cũng chính là nội dung mà dự thảo quy chế tổ chức thi hoa hậu mới do Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đề xuất. Nhưng đó chỉ mới là dự thảo, chưa được thông qua. Bộ dự kiến sẽ đưa ra quy chế mới trong năm nay. Hiện tại, Quy chế số 37/2006/QĐ-BVHTT vẫn còn nguyên hiệu lực.

Trước khả năng có thể xảy ra những vi phạm tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008, Cục phó Cục Nghệ thuật biểu diễn trả lời: “Nếu có vi phạm gì, Ban tổ chức có quyền đưa ra các hình thức xử lý, căn cứ theo quy định của Quy chế hiện hành. Nếu Ban tổ chức không can thiệp, các cơ quan quản lý văn hóa sẽ có ý kiến”.

Theo nguồn tin riêng của VnExpress.net, việc thẩm tra lý lịch đối với thí sinh Trần Thị Thùy Dung chỉ được Ban tổ chức tiến hành vào chiều ngày 31/8. Khi được đại diện Ban tổ chức hỏi ý kiến qua điện thoại, Hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm cũng đã xác nhận thông tin Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Tuy nhiên, tối hôm đó, vương miện vẫn được trao cho người đẹp Đà Nẵng.

Sau khi sự việc xảy ra, VnExpress.net đã cố gắng liên lạc với Ban tổ chức. Nhưng điện thoại của các thành viên luôn ở trong tình trạng không liên lạc được hoặc không bắt máy.

Nhóm phóng viên

Việc lùm xùm sau cuộc thi Hoa Hậu Hoàn Vũ chưa yên thì cuộc thi Hoa Hậu Việt Nam lại diễn ra để lại nhiều vấn đề khuất tất trước, trong và sau cuộc thi. Đầu tiên là việc Đương kim Hoa hậu Mai Phương Thúy bị cấm có mặt tại Hội An mà không được giải thích rõ ràng từ BTC, tiếp là việc lên ngôi khá bất ngờ và thiếu thuyết phục của Thùy Dung- theo tôi Thụy Vân rõ ràng xứng đáng hơn cả về ngoại hình lẫn trình độ, chả lẽ có lý do gì đó để HH là người Đà Nẵng trong lần thi tại sân nhà này, sân nhà luôn chiến thắng?!-, cuối cùng là một sự thật gian lận không thể chối cãi của HH Thùy Dung. Dạo này các cuộc thi HH quá nhiều và trở nên nhạt, chán, nhiều tai tiếng. Mong chờ một cái gì đàng hoàng, thuyết phục hơn trong cuộc thi truyền thống của báo TP, nhưng ông Nam dạo này làm ăn cũng tệ quá.



Hoa hậu Thùy Dung "bị nghi ngờ" vi phạm quy chế

Quy chế tổ chức thi hoa hậu hiện hành quy định, thí sinh dự thi phải có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên. Vì vậy, thông tin tân Hoa hậu Trần Thị Thùy Dung chưa hoàn thành bậc học phổ thông đã làm dấy lên băn khoăn, liệu cô có vi phạm quy chế?

Thùy Dung đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2008 trong đêm chung kết 31/8. Ngay sau đó, nhiều diễn đàn trên mạng xôn xao, người đẹp Đà Nẵng chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, vi phạm quy chế Tổ chức thi Hoa hậu số 37/2006/ QĐ-BVHTT do Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch) ban hành ngày 24/3/2006.

Thùy Dung sau ngày đăng quang. Ảnh: H.V.
Thùy Dung sau ngày đăng quang. Ảnh: H.V.

Chưa hết hạnh phúc vì chiến thắng của con gái út, gia đình Thùy Dung chìm vào không khí buồn bã và lo lắng trước những nghi vấn dồn dập về trình độ học vấn của cô. Bố của tân hoa hậu, ông Trần Văn Liễu, từ chối trả lời báo giới. Mẹ cô, bà Mai Thị Bích Hà, giọng mệt mỏi nói: “Tôi rất buồn trước những thông tin như vậy. Nhưng giờ cháu đã là Hoa hậu, nên mọi vấn đề khúc mắc về cuộc thi xin hãy liên hệ Ban tổ chức”.

Trước khi đến với cuộc thi, Thùy Dung từng là học sinh trường THPT tư thục Quang Trung, Đà Nẵng. Trao đổi với VnExpress.net, ông Phạm Sỹ Liêm, Hiệu trưởng nhà trường, khẳng định: “Học kỳ I năm 2007-2008, khi đang học lớp 12, Thùy Dung nghỉ học, xin rút hồ sơ ở trường với lý do bổ sung hồ sơ du học ở Mỹ. Vì vậy, em chưa tốt nghiệp phổ thông”.

Như vậy liệu Hoa hậu có vi phạm quy chế cuộc thi? Quy chế số 37/2006/ QĐ-BVHTT nêu rõ, thí sinh dự thi hoa hậu phải “Có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên” (Điều 4, khoản 2, mục 2.2). Tuy nhiên, điều 4 Thể lệ cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 quy định, đối tượng dự thi chỉ cần có “Trình độ học vấn từ phổ thông trung học trở lên”. Vì vậy, khi đọc thể lệ, bà Bích Hà và cá nhân Thùy Dung đều cho rằng, cô có đủ điều kiện để dự thi hoa hậu.

Trích thể lệ cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 của báo Tiền Phong.

Trao đổi với VnExpress.net, ông Nguyễn Văn Khánh - Cục phó Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch - cho biết, theo quy chế, thí sinh hoa hậu phải có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học, tương đương với cụm từ “Có trình độ văn hóa tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên”.

Tuy nhiên, nếu nói như thể lệ mà Ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 đưa ra: “có trình độ học vấn từ phổ thông trung học trở lên” thì theo ông Khánh có thể hiểu là áp dụng với cả những người đang theo học bậc Trung học phổ thông. Ông còn cho hay, đây cũng chính là nội dung mà dự thảo quy chế tổ chức thi hoa hậu mới do Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đề xuất. Nhưng đó chỉ mới là dự thảo, chưa được thông qua. Bộ dự kiến sẽ đưa ra quy chế mới trong năm nay. Hiện tại, Quy chế số 37/2006/QĐ-BVHTT vẫn còn nguyên hiệu lực.

Trước khả năng có thể xảy ra những vi phạm tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008, Cục phó Cục Nghệ thuật biểu diễn trả lời: “Nếu có vi phạm gì, Ban tổ chức có quyền đưa ra các hình thức xử lý, căn cứ theo quy định của Quy chế hiện hành. Nếu Ban tổ chức không can thiệp, các cơ quan quản lý văn hóa sẽ có ý kiến”.

Theo nguồn tin riêng của VnExpress.net, việc thẩm tra lý lịch đối với thí sinh Trần Thị Thùy Dung chỉ được Ban tổ chức tiến hành vào chiều ngày 31/8. Khi được đại diện Ban tổ chức hỏi ý kiến qua điện thoại, Hiệu trưởng Phạm Sỹ Liêm cũng đã xác nhận thông tin Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. Tuy nhiên, tối hôm đó, vương miện vẫn được trao cho người đẹp Đà Nẵng.

Sau khi sự việc xảy ra, VnExpress.net đã cố gắng liên lạc với Ban tổ chức. Nhưng điện thoại của các thành viên luôn ở trong tình trạng không liên lạc được hoặc không bắt máy.

Nhóm phóng viên

Việc lùm xùm sau cuộc thi Hoa Hậu Hoàn Vũ chưa yên thì cuộc thi Hoa Hậu Việt Nam lại diễn ra để lại nhiều vấn đề khuất tất trước, trong và sau cuộc thi. Đầu tiên là việc Đương kim Hoa hậu Mai Phương Thúy bị cấm có mặt tại Hội An mà không được giải thích rõ ràng từ BTC, tiếp là việc lên ngôi khá bất ngờ và thiếu thuyết phục của Thùy Dung- theo tôi Thụy Vân rõ ràng xứng đáng hơn cả về ngoại hình lẫn trình độ, chả lẽ có lý do gì đó để HH là người Đà Nẵng trong lần thi tại sân nhà này, sân nhà luôn chiến thắng?!-, cuối cùng là một sự thật gian lận không thể chối cãi của HH Thùy Dung. Dạo này các cuộc thi HH quá nhiều và trở nên nhạt, chán, nhiều tai tiếng. Mong chờ một cái gì đàng hoàng, thuyết phục hơn trong cuộc thi truyền thống của báo TP, nhưng ông Nam dạo này làm ăn cũng tệ quá.